Thứ Năm, 3 tháng 6, 2010

LƯU BANG, TRƯƠNG LƯƠNG, HÀN TÍN


Trước khi nói về Trương Lương Ngocanhluu muốn sơ lượt về nước Hàn một chút, vì Trương Lương là người dân gốc Hàn.
Hàn (韓國, Hánguó) (403 TCN-230 TCN) là một quốc gia trong thời kỳ Chiến Quốc tại Trung Quốc. Nhà nước này tồn tại từ khoảng năm 403 TCN, khi Hàn Kiền được Chu Uy Liệt vương phong tước hầu (tức Hàn Cảnh hầu) cho tới năm 230 TCN, khi Hàn vương An bị quân Tần bắt sống.
Lãnh thổ của nước Hàn trải rộng trong khu vực ngày nay là miền nam tỉnh Sơn Tây, miền bắc tỉnh Hà Nam. Phía tây giáp vớiTần, phía bắc giáp Ngụy và Triệu, phía đông giáp Tề, phía nam giáp Sở. Như thế nước Hàn chắn ngang lối thông ra vùng bình nguyên Hoa Bắc của Tần, do đó Hàn thường xuyên trở thành mục tiêu cho các hoạt động quân sự của Tần. Mặc dù nước Hàn đã có vài lần cải cách để cố gắng trở nên hùng mạnh, đáng chú ý là dưới thời kỳ nắm quyền của tướng quốc theo phái Pháp gia là Thân Bất Hại, nhưng Hàn không bao giờ có thể vượt qua nổi Tần. Trên thực tế, Hàn là nước đầu tiên trong số 6 quốc gia lớn bị Tần tiêu diệt.
Cuộc xâm lăng của Tần vào quận Thượng Đảng (上党郡) của Hàn có lẽ là chiến dịch đẫm máu nhất trong thời kỳ này, với trận đánh then chốt là trận Trường Bình năm 260 TCN.
Theo Sử ký, gia tộc họ Hàn có nguồn gốc từ quý tộc nhà Chu. Vua Chu đã ban đất Hàn Nguyên (韓原) cho gia tộc họ Hàn, và với vùng đất ấy gia tộc này đã sử dụng nó để thu được ảnh hưởng và tầm quan trọng. Năm 403 TCN, Hàn Kiền, cùng Ngụy Tư và Triệu Tịch đã cùng nhau chia sẻ nước Tấn một thời hùng mạnh ra thành ba nước, gọi là Hàn, Ngụy và Triệu, được một số sử gia coi là khởi đầu thời kỳ Chiến Quốc cũng như Hàn trở thành một thể chế chính trị độc lập. Chu Uy Liệt vương buộc phải công nhận các nước chư hầu mới này và phong cho họ tước hầu.
Đỉnh cao của nước Hàn là trong thời kỳ trị vì của Hàn Ly hầu (hay còn gọi là Hàn Chiêu hầu) Hàn Vũ. Hàn Ly hầu dùng Thân Bất Hại (申不害, ?-337 TCN) làm tướng quốc và áp dụng các triết lý Pháp gia của Thân Bất Hại. Các chính sách của Thân Bất Hại đã giúp củng cố và tăng cường sức mạnh cho nước Hàn, làm cho hầu quốc này trở thành một xã hội tiểu khang. Tới năm 323 TCN Hàn Uy hầu (Hàn Khang) đã tự xưng vương, tức Hàn Tuyên vương (hay Hàn Tuyên Huệ vương).
Hàn là nước bị bao vây cả bốn mặt bởi các quốc gia hùng mạnh khác như Sở ở phía nam, Tề ở phía đông, Tần ở phía tây, Triệu và Ngụy ở phía bắc. Hàn lại là nước nhỏ nhất trong số Thất hùng, và liên tục bị các cường quốc này áp bức về mặt quân sự. Trong sự suy tàn dần dần của mình, Hàn đánh mất dần quyền lực để có thể tự bảo vệ lãnh thổ của mình và buộc phải cầu viện từ các quốc gia khác khi đối mặt với các cuộc xâm lăng. Cuối cùng, Hàn trở thành nước đầu tiên trong số Lục quốc bị Tần tiêu diệt năm 230 TCN.
Danh sách các vị quân chủ
Tước hiệuTênTrị vì
Sơ kỳ (tiền quốc gia)
Hàn Hiến tử (韓獻子) Hàn Quyết (韓厥)
Hàn Tuyên tử (韓宣子) Hàn Khởi (韓起)
Hàn Trinh tử (韓貞子) Hàn Tu (韓須)
Hàn Giản tử (韓簡子) Hàn Bất Tín (韓不信)
Hàn Trang tử (韓莊子) Hàn Canh (韓庚)
Hàn Khang tử (韓康子)
Hàn Vũ tử (韓武子) Hàn Khải Chương (韓啓章) 424 TCN – 409 TCN
Nhà nước chủ quyền
Hàn Cảnh hầu (韓景侯) Hàn Kiền (韓虔) 408 TCN – 400 TCN
Hàn Liệt hầu / Hàn Vũ hầu (韓烈侯 / 韓武侯) Hàn Thủ (韓取) 399 TCN – 387 TCN
Hàn Văn hầu (韓文侯) Hàn Du (韓猷) hay Hàn Sơn Bích (寒山碧)[1] 386 TCN – 377 TCN
Hàn Ai hầu (韓哀侯) Hàn Truân Mông (韓屯蒙) 376 TCN – 374 TCN 1]
Hàn Cung hầu / Hàn Trang hầu / Hàn Ý hầu (韓共侯 / 韓莊侯 / 韓懿侯) Hàn Nhược Sơn? (韓若山?) 374 TCN – 363 TCN
Hàn Ly hầu / Hàn Chiêu hầu (韓厘侯 / 韓昭侯) Hàn Vũ (韓武) 362 TCN – 333 TCN
Hàn Tuyên Huệ vương[1] / Hàn Tuyên vương[1] / Hàn Uy hầu[2](韓宣惠王 / 韓宣王 / 韓威侯) Hàn Khang (韓康) 332 TCN – 312 TCN
Hàn Tương vương / Hàn Tương Ai vương / Hàn Điệu Tương vương (韓襄王 / 韓襄哀王 / 韓悼襄王) Hàn Thương (韓倉) 311 TCN – 296 TCN
Hàn Ly vương
韓厘王 Hàn Cao (韓咎) 295 TCN – 273 TCN
Hàn Hoàn Huệ vương (韓桓惠王) Hàn Nhiên (韓然) 272 TCN – 239 TCN[1]
Hàn Phế vương / Hàn vương An (韓廢王 / 韩王安) Hàn An (韓安) 238 TCN – 230 TCN[3]

TRƯƠNG LƯƠNG:
Trương Lương (chữ Hán: 張良; ?-188 TCN),tự là Tử Phòng, là mưu sĩ và là văn thần,1 trong "tam kiệt nhà Hán"(phi tam kiệt tất vô Hán thất), cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà có công giúp Lưu Bang đánh đổ nhà Tần và thắng Hạng Vũ trong chiến tranh Hán Sở sáng lập ra nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Trương Lương tự là Tử Phòng (子房), là dòng dõi sĩ tộc nước Hàn thời Chiến Quốc. Tổ tiên làm khanh sĩ nước Hàn.
Ông nội Trương Lương là Trương Khai Địa làm tướng quốc của Hàn Chiêu Hầu, Tuyên Huệ Vương, Tương Ai Vương; cha ông là Trương Bình làm tướng quốc của Hàn Li Vương, Hàn Điệu Huệ Vương. Năm thứ 23 đời Hàn Điệu Huệ Vương (250 TCN), Trương Bình chết. Vì khi đó Trương Lương còn ít tuổi nên chưa từng làm quan nước Hàn.
Báo quốc bất thành, mài chí ở Hạ Bì
230 TCN, nước Hàn bị Tần Thuỷ Hoàng tiêu diệt. Trương Lương có ba trăm người tôi tớ trong nhà. Em ông chết, ông không lo chôn cất mà lo việc báo thù nước Tần. Ông đem tất cả gia tài tìm thích khách giết vua Tần để báo thù cho nước Hàn.
Trương Lương, tìm được một lực sĩ, làm một cái chuỳ sắt, nặng một trăm hai mươi cân. Năm 218 TCN, Tần Thuỷ Hoàng đi chơi ở miền đông, ông và người lực sĩ rình đánh Tần Thuỷ Hoàng ở bãi cát Bác Lãng, nhưng lại đánh nhầm phải xe tuỳ tùng nên giết hụt vua Tần. Tần Thuỷ Hoàng nổi giận sai lùng khắp thiên hạ. Trương Lương bèn đổi tên họ, trốn tránh ở Hạ Bì.
Ngày ở Hạ Bì, tương truyền nhờ tính khiêm tốn, nhún nhường, ông được Hoàng Thạch Công truyền cho cuốn “Thái Công binh pháp”. Hoàng Thạch Công dặn Trương Lương rằng:
Đọc quyển sách này thì làm được thầy bậc vương giả. Mười năm sau, sẽ ứng nghiệm. Mười ba năm sau, con đến gặp ta. Hòn đá màu vàng dưới chân núi Cốc Thành ở phiá bắc sông Tế là ta đó.
Trương Lương rất quý quyển này, thường đem ra học tập nghiền ngẫm.
Trương Lương ở Hạ Bì làm người nghĩa hiệp. Hạng Bá là anh Hạng Lương, con tướng Hạng Yên nước Sở phạm tội giết người, được ông che chở.
Tái lập nước Hàn
Năm 209 TCN, Trần Thắng khởi nghĩa chống nhà Tần. Trương Lương cũng tụ họp hơn trăm trai tráng. Tháng 12 năm 208 TCN Trần Thắng bị giết, tướng Tần Gia lập người dòng dõi nước Sở là Cảnh Câu ở đất Lưu làm Giả Vương Nước Sở. Trương Lương muốn đi theo, đi đến giữa đường thì gặp Lưu Bang, bèn theo Lưu Bang. Lưu Bang cho ông làm tướng coi về việc ngựa của quân.
Ông mấy lần đem binh pháp của Thái Công ra trình bày với Lưu Bang, được khen ngợi. Vì vậy, ông quyết định theo Lưu Bang, không đến yết kiến Cảnh Câu nữa.
Sau đó Hạng Lương khởi nghĩa ở đất Ngô, vượt sông Trường Giang đánh Tần, khí thế rất mạnh. Hạng Lương diệt Tần Gia không chịu quy phục.
Lưu Bang đến đất Tiết, yết kiến Hạng Lương, Hạng Lương lập Sở Hoài Vương. Trương Lương bèn nói với Hạng Lương:
Ngài đã lập con cháu vua Sở; trong các công tử nước Hàn, Hành Dương Quân tên là Thành là người hiền, có thể lập làm vương để tăng thêm vây cánh.
Hạng Lương nghe theo, sai Trương Lương tìm Hàn Thành, lập làm vua Hàn, cho ông làm tư đồ nước Hàn, cho Hàn Vương cầm hơn 1000 quân đi về hướng tây lấy đất Hàn. Quân Hàn lấy được mấy thành, nhưng yếu thế nên bị quân Tần cướp lại ngay. Quân Hàn đi lại đánh quanh quẩn ở miền Dĩnh Xuyên.
Giúp Lưu Bang diệt Tần
Lưu Bang và Hạng Vũ nhận giao ước đi đánh Tần . Khi Lưu Bang đi từ miền nam Lạc Dương ra khỏi núi Hoàn Viên, Trương Lương dẫn quân theo, lấy được hơn mười thành của Hàn, đánh phá quân của Dương Hùng.
Lưu Bang bèn sai Hàn Vương Thành ở lại giữ huyện Dương Định, còn mình cùng Trương Lương đi về hướng nam, đánh lấy được đất Uyển, rồi quay sang hướng tây vào Vũ Quan. Trên đường vào Quan Trung, quân Lưu Bang không gặp nhiều trở ngại do không phải đối mặt với những đạo quân hùng hậu của nhà Tần. Tuy nhiên, có tướng chư hầu Tư Mã Ngang nước Triệu muốn tranh công vào Quan Trung trước. Trương Lương bèn bày kế cho Lưu Bang ngăn đường Ngang khiến Ngang không thể chen chân vào Quan Trung sớm.
Lưu Bang muốn đem hai vạn quân đánh quân Tần ở gần đất Nghiên, ông nói:
Quân Tần vẫn còn mạnh, chưa có thể coi thường. Thần nghe nói tướng Tần là con nhà hàng thịt. Là con nhà buôn, thì dễ lấy lợi mà lôi cuốn họ. Xin hãy tạm thời ở lại giữ thành, sai người đi trước dự bị lương thực cho năm vạn người ăn, lại cắm thêm cờ xí ở trên núi để làm nghi binh, sai Lịch Tự Cơ mang của quý đút lót cho tướng Tần.
Qủa nhiên tướng Tần làm phản, muốn liên kết với Lưu Bang cùng đem binh về hướng Tây đánh úp Hàm Dương. Lưu Bang nghe theo, ông nói:
Đây chỉ có viên tướng của nó là muốn làm phản thôi, sợ bọn quân lính không nghe theo. Nếu họ không nghe theo thì nguy, chi bằng ta nhân lúc nó trễ nãi mà đánh nó.
Lưu Bang liền đem quân đánh quân Tần, phá tan quân Tần. Lưu Bang đi về hướng bắc đến Lam Điền, đánh trận thứ hai, quân Tần thua to. Lưu Bang đến Hàm Dương , vua Tần là Tử Anh ra hàng.
Được Hạng Bá trả ơn
Lưu Bang vào cung nhà Tần, thấy nhà cửa, màn trướng, chó ngựa, vật quí, đàn bà con gái đến hàng ngàn, ý muốn ở lại đấy. Phàn Khoái can Lưu Bang nhưng Bang không nghe. Ông nói:
Tần làm điều vô đạo cho nên ngài mới đến được đây. Đã cốt vì thiên hạ giết bọn giặc tàn ác, thì ta nên ăn ở theo lối mộc mạc, để tỏ cái nền nếp của mình. Nay ngài vừa mới vào nước Tần mà đã ham thích cái vui thú của nó, thì khác gì người ta nói, “Nối giáo cho giặc” vậy. Vả chăng, “lời nói ngay nghe chướng tai, nhưng có lợi cho việc làm, thuốc đắng, uống khó chịu nhung chữa được bệnh”, xin ngài nghe theo lời Phàn Khoái!
Lưu Bang bèn đem quân về Bá Thượng.
Hạng Vũ vào đến Hồng Môn, muốn đánh Lưu Bang. Chú Hạng Vũ là Hạng Bá đang đêm ruổi ngựa đến báo cho ông biết, để trả ơn cưu mang trước đây.
Ông bèn cố mời Hạng Bá vào. Hạng Bá yết kiến Lưu Bang. Bang mời Bá uống rượu chúc thọ kết làm thông gia, nhờ Hạng Bá nói lại đầu đuôi rằng mình không dám phản lại Hạng Vũ. Hạng Bá về nói lại, Hạng Vũ bèn thôi đánh úp Lưu Bang.
Hạng Vũ có thế mạnh, đứng đầu chư hầu, phong cho Lưu Bang làm Hán Vương, cai trị đất Ba, đất Thục. Hán Vương cho ông 2000 lạng vàng, hai hộc châu báu, ông bèn đem hiến tất cả cho Hạng Bá. Hán Vương cũng nhân đó, sai Lương đem nhiều của quí cho Hạng Bá nhờ Hạng Bá xin thêm đất Hán Trung giàu có, đông dân cho mình để làm cơ sở đánh Sở sau này. Nhờ Hạng Bá nói hộ, Hạng Vương ưng thuận, vì vậy Lưu Bang được đất Hán Trung.
Hán Vương vào đất Ba, đất Thục, Trương Lương tiễn đến đất Bao Trung. Hán Vương sai ông về nước Hàn. Trương Lương nói với Hán Vương :
Sao đại vương không đốt quách các đường sạn đạo đã đi qua, để nói với thiên hạ rằng mình không có ý muốn quay lại, làm cho Hạng Vương yên lòng!
Hán Vương nghe theo, bèn đốt tất cả đường sạn đạo khiến Hạng vương yên tâm.
Giúp Hán thắng Sở
Đánh lạc hướng Sở Bá vương
Trương Lương đến nước Hàn, vì Hàn Vương Thành đã cho ông theo Hán Vương thành ra Hán vương vào Quan Trung trước, nên Hạng Vương oán không cho Thành về nước Hàn, bắt Thành theo mình sang Bành Thành giam lỏng.
Trương Lương bèn theo đến. Nhân lúc đó các chư hầu Điền Vinh ở nước Tề, Trần Dư ở nước Triệu nổi dậy chống Hạng Vũ, Trương Lương bèn lấy thư của Tề Vương là Điền Vinh làm phản đưa cho Hạng Vương. Vì vậy Hạng Vương không lo đến Hán Vương đang ở phía tây; trái lại, đem binh về phương bắc đánh Tề.
Trước khi đi, Hạng Vương, giáng Hàn Thành xuống làm hầu, rồi giết ở Bành Thành. Trương Lương bèn bỏ trốn, lẻn theo về với Hán Vương. Lúc đó Hán Vương dùng Hàn Tín làm đại tướng, đã lấy được Tam Tần, cho ông làm Thành Tín Hầu, đi về hướng đông đánh Sở.
Lôi kéo chư hầu theo Hán
Lưu Bang mang đại quân đánh Bành Thành, bị Hạng Vũ quay lại đánh cho thua to phải rút về. Trương Lương khuyên Hán vương đi dụ các tướng Anh Bố có hiềm khích với Hạng Vũ và Bành Việt ở nước Lương. Đồng thời ông nhận định rằng trong số các tướng của Hán Vương, chỉ có một mình Hàn Tín là có thể giao được việc lớn, chống giữ được một mặt. Ông dự đoán ba viên tướng này có thể giúp Lưu Bang phá được nước Sở.
Hán Vương nghe theo, bèn sai sứ đi dụ Cửu Giang Vương Anh Bố, sai sứ giả kết liên với Bành Việt.
Đến khi Nguỵ Vương là Báo làm phản, Hán Vương sai Hàn Tín đem binh đánh Báo. Nhờ tài năng của Hàn Tín, quân Hán liên tiếp thắng trận, lấy được các nước Yên, Đại, Tề, Triệu.
Bác kế của Lịch Tự Cơ
Năm 204 TCN, Hạng Vũ vây Lưu Bang ở Huỳnh Dương rất gấp. Hán Vương lo lắng, cùng Lịch Tư Cơ bàn cách làm yếu lực lượng của Sở. Tự Cơ khuyên nên lập lại được con cháu sáu nước chư hầu để làm vây cán Lưu Bang khen hay, sai Tự Cơ đi khắc ấn để lập con cháu 6 nước. Tự Cơ chưa đi, Trương Lương ở ngoài vào yết kiến biết việc đó, bèn hỏi:
Ai bày cho đại vương kế này ? Công việc của đại vương thế là hỏng rồi.
Hán Vương hỏi tại sao, ông nói:
Những kẻ du sĩ trong thiên hạ bỏ thân thích, xa lìa mồ mả ông cha, rời những người quen thuộc đi theo đại vương, chỉ là ngày đêm mong được một thước, một tấc đất đai. Nay đại vương lại khôi phục sáu nước, lập lại con cháu Hàn, Nguỵ, Yên, Triệu, Tề, Sở thì những kẻ du sĩ trong thiên hạ đều trở về thờ vua của họ, theo thân thích của họ, quay về với những người quen thuộc của họ, với mồ mả ông cha của họ, vậy đại vương còn nhờ ai mà lấy được thiên hạ nữa? Vả chăng, nếu nước Sở mà mạnh nhất thì sáu nước được lập lên sẽ lại chịu khuất mà theo Sở. Như vậy đại vương làm sao mà bắt họ thần phục mình được?
Hán Vương liền sai tiêu huỷ ngay các ấn.
Mượn sức chư hầu diệt Sở
Năm 203 TCN, Hàn Tín phá nước Tề, muốn tự lập làm Tề Vương. Hán Vương giận định không cho nhưng Trương Lương bàn với Hán Vương nên bằng lòng để lấy lòng Tín. Hán Vương sai ông trao ấn Tề Vương cho Hàn Tín.
Sau đó Lưu Bang và Hạng Vũ giảng hoà để đón gia quyến Lưu Bang về. Hai bên cắt Hồng Câu làm ranh giới.
Hạng Vũ mang quân về nước. Lưu Bang cũng định về Quan Trung thì Trương Lương khuyên Bang nên đánh úp để diệt Sở. Bang nghe theo, bèn đuổi theo quân Sở, đánh úp Hạng Vũ ở Dương Hạ. Không ngờ quân Hạng Vũ vẫn rất mạnh mẽ, quay lại đánh bại Lưu Bang ở Cố Lăng. Chư hầu hẹn nhưng không đến.
Trương Lương khuyên Lưu Bang sai người đi nói với các tướng Hàn Tín, Bành Việt, Anh Bố, sẽ phong nhiều đất nếu chịu điều quân về cùng diệt Sở. Các tướng nghe theo, mang quân về hội. Quân Hán có số đông áp đảo nên đánh bại quân Sở ở Cai Hạ. Hạng Vũ thua chạy tới Ô Giang và tự vẫn. Nước Sở bị diệt (202 TCN).
Khiêm nhường rút lui
Không nhận nhiều công
Lưu Bang lên ngôi hoàng đế, tức là Hán Cao đế.
Tháng giêng năm 200, Hán Vương phong cho các công thần. Trương Lương chưa hề có công về chiến trận, Cao Đế nói: Bàn mưu kế ở trong màn, trướng, quyết định sự thắng lợi ở ngoài ngàn dặm, đó là công của Tử Phòng ! Cho ngươi tự chọn lấy ba vạn hộ ở đất Tề.
Ông nói:
Xưa kia thần khởi nghĩa ở Hạ Bì, tới đất Lưu thì gặp bệ hạ. Đó là trời đem thần giao cho bệ hạ ! Bệ hạ dùng mưu kế của thần, may mà có lúc trúng, thần xin được phong ở Lưu là đủ rồi, không dám nhận ba vạn hộ.
Cao Đế bèn phong Trương Lương làm Lưu Hầu.
Làm yên lòng công thần
Lúc đó Lưu Bang đã phong hơn hai mươi người đại công thần, còn những người khác thì ngày đêm tranh công nhau, không quyết định được, cho nên chưa làm việc phong tước. Lưu Bang ở cung Nam thành Lạc Dương, từ con đường trên gác nhìn các tướng, thấy họ cùng nhau ngồi trên bãi cát nói chuyện, bèn hỏi ông:
Họ nói gì thế?
Ông đáp:
-Bệ hạ không biết sao? Đó là họ bàn việc làm phản đấy thôi!
-Thiên hạ đã gần được yên rồi ! Vì cớ gì họ lại làm phản?
Ông nói:
Bệ hạ vốn từ áo vải xuất thân, nhờ bọn họ mà lấy được thiên hạ. Nay bệ hạ làm thiên tử, mà người được phong lại là những người bạn cũ, hoặc người thân yêu như là Tiêu Hà, Tào Tham; còn những người bị giết lại là những người bình sinh bệ hạ thù oán. Nay quân lại tính công trạng cho rằng lấy cả thiên hạ cũng không đủ để phong cho khắp cả mọi người, bọn này sợ bệ hạ không thể phong cho tất cả, lại ngờ rằng mình sẽ bị giết vì những lỗi lầm ngày trước, cho nên họp nhau mưu làm phản đó thôi.
Lưu Bang lo lắng hỏi:
-Bây giờ làm thế nào?
-Trong số những người ngày thường bệ hạ vẫn ghét mà các quan đều biết thì ai là bị ghét hơn cả?
-Ung Xỉ với ta là chỗ quen biết cũ, thường làm ta khốn khổ, nhục nhã. Ta muốn giết hắn nhưng vì hắn lập được nhiều công cho nên không nỡ.
-Nay mau mau phong cho Ung Xỉ trước, để tỏ cho các quan biết. Các quan thấy Ung Xỉ được phong thì người nào cũng sẽ yên tâm.
Lưu Bang bèn đặt tiệc rượu, phong Ung Xỉ làm Thập Phương Hầu, và giục gấp thừa tướng, ngự sử phải lo việc định công lao, phong đất đai. Tiệc rượu tan, các quan đều mừng rỡ nói:
Ung Xỉ mà còn được phong hầu, thì bọn ta chẳng phải lo nữa.
Giúp Lưu Doanh giữ ngôi thái tử
Lưu Bang có con lớn Lưu Doanh là con của Lã Trĩ đã lập làm thái tử, dùng Thúc Tôn Thông làm thái phó, Trương Lương làm thiếu phó giúp Doanh. Nhưng sau lại có Lưu Như Ý là con Thích phu nhân thông minh hơn nên muốn bỏ Doanh để lập Như Ý.
Lã Hậu sợ, không biết làm thế nào. Có người nói với Lã Hậu nên hỏi Trương Lương. Lã Hậu bèn sai Lã Trạch đến nhờ ông. Ban đầu Trương Lương định từ chối, nhưng Lã Trạch cố nài nên ông nhận lời. Ông giúp Lưu Doanh mời được 4 hiền sĩ trong thiên hạ là Đông Viên Công, Giác Lý tiên sinh, Ỷ Lý tiên sinh, Hạ Thạch Công mà trước đó chính Lưu Bang không sao mời nổi.
Năm 195 TCN, sau khi đánh phá quân Anh Bố về, Lưu Bang ốm càng nặng, muốn thay thái tử. Trương Lương can, Lưu Bang không nghe
Đến khi ăn tiệc, thái tử Doanh rót rượu đứng chầu. Bốn người theo thái tử tuổi đều ngoài tám mươi, mày râu bạc phơ, áo mũ rất đẹp. Lưu Bang lấy làm lạ hỏi. Bốn người tiến đến thưa, kể họ tên, là Đông Viên Công, Giác Lý tiên sinh, Ỷ Lý tiên sinh, Hạ Thạch Công. Lưu Bang kinh ngạc nói:
Ta tìm các ông mấy năm nay, các ông trốn tránh ta. Nay tại sao các ông lại từ đâu đến chơi với con ta như vậy?
Bốn người đáp:
Bệ hạ khinh kẻ sĩ, hay mắng người, bọn thần nghĩa khí không chịu nhục, cho nên sợ mà trốn tránh. Nay trộm nghe thái tử là người nhân đức hiếu thảo, cung kính, thương yêu kẻ sĩ, trong thiên hạ không ai không vươn cổ muốn vì thái tử mà chết, vì vậy chúng tôi đến đây.
Lưu Bang nói:
Phiền các ông nhờ giúp đỡ thái tử cho trót.
Lưu Bang bèn quyết định giữ ngôi thái tử của Lưu Doanh.
Học theo Phạm Lãi
công thần nhà Hán như Hàn Tín, Bành Việt, Anh Bố lần lượt bị Lưu Bang trừ khử để phong đất cho các hoàng tử họ Lưu. Vua Hàn mới là Hàn Vương Tín mà Trương Lương đề cử Lưu Bang lập làm vương thời Hán Sở cũng bị cải phong lên Thái Nguyên xa xôi. Hàn vương Tín bèn dẫn quân Hung Nô vào đánh Hán nhưng cuối cùng bị thua trận, phải chạy sang hàng Hung Nô. Trương Lương bất lực nhìn nước Hàn bị xoá sổ.Trương Lương nói với Lưu Bang:
Gia đình tôi đời đời làm tướng quốc nước Hàn. Đến khi Hàn mất, tôi chẳng tiếc số tiền vạn lạng vàng, đối phó với nước Tần mạnh, để báo thù cho nước Hàn, làm cho thiên hạ đều rung động. Nay tôi lấy ba tấc lưỡi mà làm thầy bậc đế vương, được phong vạn hộ, ở ngôi chư hầu, kẻ áo vải được thế là tột bậc, đối với Lương thế là đủ rồi. Vậy xin bỏ việc nhân gian, chỉ muốn đi ngao du với Xích Tùng Tử mà thôi.
Hài Công trọng nghĩa đâm bạo chúa
Triệu Cao cải mệnh , mưu thay vua
Người thiếu niên này vốn dòng nho sĩ, quê ở nước Hàn, họ Trương tên Lương, tự là Tử Phòng. Tổ tiên Trương Lương năm đời làm danh sĩ nước Hàn. Từ khi Tần Thủy Hoàng diệt nước Hàn, Trương Lương đêm ngày ôm hờn vong quốc quyết chí báo thù bỏ ra nghìn nén vàng , đi khắp thiên hạ , liên kết với các dũng sĩ để bàn việc thích khách bạo chúa .
Trong lúc Trương lương đang ngẩn người , buồn thế sự thì đàng sau có một tráng sĩ chạy đến chào Trương Lương , và nói :
- Vừa rồi nghe ngài kể tội ác của Thủy Hoàng, lòng tôi bỗng dưng hậm hực. Nếu ngài muốn làm việc nghĩa cử, trừ hôn quân dâm bạo, tôi xin nguyện đem thân giúp sức.
Trương Lương thấy người ấy mình cao một trượng , tướng mạo đoan trang, biết là bậc phi thường, liền cầm tay, nói :
- Chỗ này không phải nơi thố lộ tâm tình, xin tráng sĩ về nhà tôi đàm đạo.
Tráng sĩ theo Trương Lương về nhà.
Trà nước xong, Trương Lương hỏi :
- Xin tráng sĩ cho biết quý danh ?
Tráng sĩ đáp :
- Tôi họ Lê, quê ở Hải Biên nên người ta thường gọi là Thượng Hải Công. Vốn có sức mạnh, có thể cầm nổi cây chùy nặng trăm cân, tôi thường đi đây đó, vì lòng nhân trừ kẻ hống hách, bạo ngược. Nhân thấy ngài là kẻ khẳng khái đem lòng mến, chẳng hay quý hiệu là chi ? Và có điều gì cần sai bảo tôi chăng ?
Trương Lương nói :
- Tôi người nước Hàn, họ Trương tên Lương, năm đời nhà tôi làm khanh tướng, không may vừa rồi Thủy Hoàng diệt mất nước. Thù vong quốc chẳng lúc nào nguôi.
Nay Thủy Hoàng bạo ngược, trăm họ lầm than, tôi muốn trừ đi trước cứu thiên hạ, sau rửa quốc thù. Nếu tráng sĩ chịu giúp tôi làm việc đó, sẽ lưu tiếng lại thiên thu.
Hải Công hớn hở xua tay nói :
- Tôi nguyện tuân theo lời ngài.
Trương Lương mừng rỡ, lưu tráng sĩ Hải Công lại nhà mình rồi thám thính xem Thủy Hoàng chuyến này tuần du về lối nào.
Cách mấy hôm sau, Trương Lương được tin Thủy Hoàng qua huyện Vũ Dương, liền sai Thượng Hải Công nấp nơi một gò cao, đợi xe giá Thủy Hoàng đến, thích khách.
Tiếng trống rập rềnh từ xa vẳng đến, rồi long xa ló dạng.
Công tay cầm chặt thanh chùy đứng chờ.
Tiếng bánh xe nghiến trên đường đất, qua cụm gò cao.
Nhanh như chớp, Hải Công nhảy ra, cầm chùy đánh vào long xa bể nát.
Nhưng xe nát mà Thủy Hoàng không chết !
Vì Thủy Hoàng tự biết mình có những hành động tàn bạo, sợ thiên hạ ám hại, nên đã đề phòng trước, sắm hai chiếc long xa, một chiếc để ngự lúc du hành, còn một chiếc để không, sai quân sĩ đẩy đi trước.
Thế là Trương Lương đã thất bại !
Ngự lâm quân áp lại, bắt Thượng Hải Công dẫn đến nạp cho Tần Thủy Hoàng.
Thủy Hoàng nghiến răng hét :
- Ai xui nhà ngươi làm cái việc phản nghịch đó ?
Thượng Hải Công trừng mắt đáp :
- Mày là một vị hôn quân vô đạo, khắp thiên hạ đều oán hận muốn giết mày. Ta muốn vì dân trừ hại , sao mày hỏi ngu thế ?
Thủy Hoàng nổi giận, truyền quân đem Hải Công ra tra tấn, quyết hỏi cho được kẻ chủ mưu.
Hải Công cười lớn, rồi đập đầu xuống đá tự vận .
Trương Lương lòng đau như cắt, dậm đất , kêu trời than :
- Trời ơi ! Cái thù của nước Hàn ta biết bao giờ mới trả được. Hận quốc dân biết thuở nào nguôi. Trời nỡ dung tha một kẻ hôn quân, bạo chúa để cho muôn dân sống mãi trong lầm than sao ?
Trương Lương bùi ngùi bỏ trốn sang Hạ Bì, đến trú nơi nhà Hạng Bá .
Hạng Bá là cháu Hạng Yên , trươc kia từng làm tướng nước Sở , với Trương Lương là bạn thân, nên giấu Trương Lương trong nhà không để lộ tông tích .
Khối buồn đọng mãi không tan, thỉnh thoảng Trương Lương ra ngoài dạo cảnh .
Một hôm, bóng chiều vừa xế , khóm trúc bên cầu xào xạc trước ngọn gió lê thê, Trương Lương lểnh mểnh quanh chân suối , lòng ngổn ngang trăm mối u buồn, bỗng thấy một ông già đi ngang qua cầu, làm rơi chiếc giày xuống nước rồi kêu Trương Lương nói :
- Này tiểu tử, hăy lại đây lượm chiếc giày cho ta .
Trương Lương thấy ông lão có dáng tiên phong đạo cốt , biết không phải người thường liền bước đến, cúi lượm chiếc giày trao cho ông lão rất kính cẩn
Ông lão xỏ chân vào giày rồi lại đánh rơi xuống nước . Trương Lương nhặt , cứ thế đến ba lần .
Trương Lương vẫn với cử chỉ kính cẩn không hề tỏ ý bất mãn .
Ông lão mỉm cười nhìn Trương Lương nói :
- Thằng bé này có thể dạy được đây !
Liền chỉ vào gốc cổ thụ gần đó nói :
- Năm ngày nữa, ngươi đến gốc cây này, ta sẽ cho một vật quý ! Chớ sai hẹn !
Trương Lương cúi đầu vâng mệnh.
Năm hôm sau, Trương Lương dậy sớm , y ước đến chổ gốc cây thấy ông già đã ngồi chờ sẵn nơi đó.
Ông già nhìn Trương Lương mắng :
- Ðã hẹn với kẻ trượng phu cớ sao lại đến trễ ? Thôi, ta hẹn cho năm ngày nữa, hôm đó phải đến cho sớm .
Năm hôm sau, đầu trống canh năm , Trương Lương thức dậy ra gốc cây, dè đâu ông lão lại cũng đã ngồi ở đó rồi.
- Sao ngươi biếng nhác như thế . Hôm nào cũng để ta phải chờ đợi ? Thôi, ta hẹn cho năm ngày nữa.Lần này, Trương Lương không ngủ, suốt đêm ra gốc cây ngồi chờ.Trống canh năm vừa điểm, ông lão lểnh mểnh đến .
Trương Lương sụp lạy , nói :
- Kính thưa tiên sinh có gì chỉ dạy, xin thương tình sai bảo .
Ông lão nói :- Ta xem tiểu tử cốt cách thanh kỳ, nếu biết dùng tuổi xanh lo việc học tâp, sau này có thể đồ vương định bá được. Nay ta cho ngươi ba quyển bí thư, trong có đủ kỳ mưu , thần toán . Dù Tôn , Ngô phục sinh chưa chắc bì kịp . Ngươi khá nhận lấy học tập, trước vì nước Hàn báo thù , sau vì thiên hạ giúp chân chúa đem lại thái bình, để khỏi phụ tình tri ngộ .
Trương Lương tiếp nhận ba quyển sách, quỳ mọp xuống đất tạ ơn, và hỏi :
- Tiểu tử muốn biết đại danh của tiên sinh, xin tiên sinh cho phép.
Ông lão nói :
- Ba năm nữa, nơi phía Ðông thành Ðại Cốc có một cái lăng của một vị đế vương, trong đó có một hòn đá vàng hoàng thạch tức là ta đó.
Lưong nghe nói ngạc nhiên, ngẩng mặt lên thì ông lão đã đi đâu mất.
Trương Lương trở về nhà Hạng Bá, mở sách ra xem thấy đó là bộ "Thái Công binh pháp " ngày đêm cố gắng học tập để đợi thời cơ. Sáng hôm sau, Trương Lương mở sách ra xem thì đó là quyển 'THÁI CÔNG BINH PHÁP'. Trương Lương vô cùng mừng rỡ, ngày đêm chuyên cần nghiên cứu học tập.
Cụ già tặng sách cho Trương Lương là Ông Tiên Huỳnh Thạch Công. (Huỳnh Thạch là cục đá màu vàng).
Nhờ công dâng dép 3 lần cho Tiên Ông nên được Tiên Ông tặng cho sách quí, học trong đó mới trở nên tài giỏi, làm thầy cho bực đế vương (tức là làm Quân Sư), bày mưu tính kế, đánh đông dẹp bắc, bình trị thiên hạ..
Lúc đó, Thủy Hoàng đi Ðông du, qua địa phận Từ Châu. Nơi đây hoa màu tươi tốt, cây cối khác thường.
Nhân dân trong hạt đem đến dâng cho Thủy Hoàng một cây lúa trổ ba bông.
Thủy Hoàng đắc ý, khen thưởng mọi người rồi truyền xa giá sang phía Ðông Nam, đi về huyện Bái.
Vừa đến nơi, Thủy Hoàng chợt thấy trên đỉnh núi cao, xuất hiện một vầng hào quang sáng chói.Thủy Hoàng cau mày, gọi Lý Tư nói :
- Hào quang xuất hiện, nơi đây ắt có nhân tài. Cần phải tìm giết đi để khỏi di hại về sau.
Lý Tư tâu :
- Vân khí xuất hiện là chuyện thường, nay bệ hạ tuần du mà sai người dò thám, bắt bớ e lòng dân náo động chăng ?
Thủy Hoàng nghe lời ấy, thôi không sai người dò thám bắt bớ nữa.
Một hôm, Thủy Hoàng ngự giá đến Cối Kê, dân chúng hai bên đường đều phục lạy tiếp đón.
Trong đám dân chúng ấy, bỗng có một chàng trai toan đứng dậy nhảy xổ đến đâm Thủy Hoàng.
Tuy nhiên, hành động chưa phát lộ, thì có một ông lão biết ý cản lại, kề tai nói nhỏ :
- Không nên ! Ðại trượng phu phải lập nghiệp lớn, để tiếng thiên thu, lẽ nào bắt chước những tay thích khách tầm thường !
Chàng trai cho là phải, không hành động nữa .
Chàng trai ấy là Hạng Tịch, tên chữ là Vũ, quê ở Hạ Tượng, còn ông lão kia là Hạng Lương, chú của Hạng Vũ đó.
Từ thuở bé, Hạng Vũ theo nghiệp văn, nhưng văn dốt, Hạng Vũ sang nghề võ, nhưng kiếm thuật lại không lành.
Người chú là Hạng Lương thường mắng :
- Mày học hành chẳng ra sao, lớn lên chỉ là một tên côn đồ dốt nát.
Hạng Vũ nói :
- Thưa chú học chữ chẳng qua để biên chép mòn ngày, còn học kiếm chẳng qua cũng chỉ địch nổi một vài người mà thôi. Hai môn ấy không ích nên cháu không gắng.
Hạng Lương giận hỏi :
- Thế thì mày muốn học thứ gì để gọi là ích lợi ?
Hạng Vũ thưa :
- Cháu muốn học nghề gì mà nhất địch vạn nhân, như thế ngày sau mới có thể đem thân ra tranh đấu với thiên hạ được.
Hạng Lương thấy cháu có y lạ liền lấy các sách binh pháp ra dạy. Môn này dạng Vũ thích học , song cũng chỉ học những cái đạicương mà thôi.
Hai chú cháu đang ôm mộng lập nghiệp thì hôm ấy Thuy Hoàng tuần du đến .
Hạng Vũ vốn ghét Thủy Hoàng dâm bạo muốn giết đi, nhưng Hạng Lương kịp cản lại.
Từ đấy hai chú cháu chu du khắp thiên hạ, chiêu tập nhân tài để mưu đồ đại sự.
Lý Tư thấy Thủy Hoàng đi đến đâu cũng gặp chuyện chẳng lành , dân chúng khiếp sợ lẩn tránh liền tâu Bệ ha . Bệ hạ tuần du đã lâu , trong thiên hạ đều biết rõ uy vũ . Xin Bệ hạ khá hồi loan sửa sang chính trị , giữ gìn biên cương để an dưỡng mình rồng, bớt điều khổ nhọc .
Thủy Hoàng suy nghĩ một lúc rồi truyền xa giá hồi loan .
Ði đến địa phận Duyên Châu trời tối, Thủy Hoàng nằm ngủ, bỗng mơ càng giấc điệp trông thấy một vị Long thần hiện đến cùng với Thủy Hoàng giao chiến, Thủy Hoàng cầm cự hồi lâu , nhắm sức không cự nổi, bõ chạy .Chạy đến một bờ biển. nước xanh cuồn cuộn , sóng gió hải hùng . Ðang cơn nguy cấp bỗng có một con Xích long từ trên trời sa xuống , hả mồm ngoạm lấy Thủy Hoàng nuốt đi . Thủy Hoàng thất kinh, giật mình thức dậy, mồ hôi ướt cả long bào , tay chân rũ rượi .
Biết điềm mộng chẳng lành Thủy Hoàng lo lắng sinh bệnh .
Ði đến đất Sa Khâu , bệnh thế càng nặng, Thủy Hoàng liền gọi Lý Tư đến nói :
- Trẫm biết không còn sống để thụ hưởng cảnh vinh hoa nữa. Nếu vạn nhất Trẫm cố băng hà , khanh nên đến Thượng Quận đón Thái tử Phù Tô về kế vị. Như vậy thiên hạ mới mong lạc nghiệp được .
Nói xong, lại viết tờ di chúc và giao ngọc tỷ cho Lý Tư .
Lý Tư sụp lạy nhận mệnh. Thủy Hoàng nói :
- Ngươi phò Trẫm đã lâu , các việc lớn nhỏ Trẫm đều phó thác cả. Vậy phải hết lòng vì nước chớ trái lời di chúc này. Thái tử Phù Tô là người nhân ái có thể dùng đức cải oán thiên hạ được . Ta tiếc rằng đời ta đã dùng bạo lực, phương thức không hay đối với chánh sách trị nước.
Nói đến đấy, Thủy Hoàng thở hơi cuối cùng.
Lý Tư liền tẫm liệm, rồi đưa thi thể về Hàm Dương, sai người đi triệu Phù Tô về phát tang.
Triệu Cao cản lại nói :
- Không nên ! Thái tử Phù Tô lâu nay không tín nhiệm bọn ta. Nếu Thừa Tướng lập Phù Tô lên ngôi chẳng những chúng ta mất chức, mà còn nguy hiểm đến tính mệnh nữa.
Lý Tư nói :
- Nhưng mệnh vua, làm trái sao đành.
Triệu Cao cười nhạt, nói :
- Ðành vậy. Nhưng giữ lời di chúc mà thân phải lụy , thà phụ lời di chúc mà giữ được địa vị còn hơn. Thừa Tướng đối với Thái tử đâu bằng Mông Ðiềm.
Lý Tư thở dài hỏi :
- Theo ý ngài nên làm thế nào ?
Triệu Cao nói :
- Hãy đổi tờ di chúc, lập Công tử Hồ Hợi lên nối ngôi.
Lý Tư trầm ngâm một lúc, quyền lợi bản thân thắng đạo đức, ngẩng nhìn Triệu Cao nói :
- Vâng, tôi xin theo lời ngài.
Triệu Cao mừng rỡ, đến tìm Công tử Hồ Hợi nói :
- Nghiệp đế vương ngày nay mất còn chỉ có Công tử , Thừa Tướng và tôi định đoạt. Tiên vương di chiếu lập Thái tử Phù Tô, chúng tôi xét thấy quyền hành công tử sau này sẽ mất hết. Chúng tôi xin vì công tử, lập công tử lên kế vị.
Hồ Hợi cau mày nói :
- Ôi chao ! Sao các ngài có ý nghĩ như thế ? Bỏ anh lập em là trái nghĩa, bỏ lời di chúc của Tiên vương là bất trung, con không theo lời cha là bất hiếu. Kẻ đã bất trung, bất hiếu, bất nghĩa thì ai còn phục. Tôi không thể nghe theo lời các ngài được !
Triệu Cao nói :
- Ðấng trượng phu không nên câu nệ những tiểu tiết mà bỏ đại sự. Cơ hội ngàn năm một thuở. Phú quý về tay mà không tiếp nhận, dẫu sau hối hận cũng chẳng ích gì .
Hồ Hợi nghe Triệu Cao nói bùi tai, gật đầu đáp :
- Ừ ! thế thì các ngài hành động cách nào tùy ý.
Triệu Cao lập tức trở về thuật lại với Lý Tư rồi đổi tờ di chúc, sai Diêm Nhạc đem chiếu giả đến Thượng Quận, bắt Phù Tô phải tự tử . Ðoạn lập Hồ Hợi lên ngôi.
Diêm Nhạc đến Thượng Quận truyền lệnh cho Phù Tô ra tiếp chiếu.
Phù Tô vội vàng ra sụp lạy .
Diêm Nhạc mở chiếu đọc rằng :
"Nhà Ðại Tần ngày. . . tháng. . . năm thứ 37.
Thủy Hoàng đế hạ chiếu :
Ðời Tam Ðại lấy hiếu trị thiên hạ, gây mối cương thường. Con không nghe cha là bất hiếu, tôi không nghe vua là bất trung. Kẻ bất trung, bất hiếu không dáng làm chủ thiên hạ.
Nay trưởng tử Phù Tô cải mệnh cha, không trọn đạo làm con. Cứ lấy tình cha con thôi có thể dung thứ được , song theo phép tổ tiên không thể khoản miễn .
Vậy chiếu lập Hồ Hợi làm Thái Tử , truất Phù Tô xuống thứ dân , trao cho một chén độc dược và một thanh gươm để tự xử lấy thân .
Còn như tướng Mông Ðiềm cầm quân cõi ngoại , không ích lợi gì cho nước , chỉ làm hao tốn muôn dân , lẽ ra phải theo pháp gia hình , nhưng vì trường thành chưa xong , tạm để cho Mông Ðiềm ở đó đôn đốc công việc .Chiếu chỉ đến nơi , phải lập tức tuân theo . Khâm Thử ."
Phù Tô nghe xong khóc lớn, nói :
- Ôi ! Vua bảo chết. Tôi không thể không tuân , cha bảo chết con không thể cải mệnh . Nay Phù Tô này xin lãnh thanh gươm và độc dược cho trọn niềm trung hiếu .
Mông Ðiềm cản lại nói :
- Xin Ðiện hạ xét lại đã . Bệ hạ sai hạ thần đem ba mươi vạn quân đóng nơi biên cương , lại sai Ðiện hạ đến làm Giám Ðốc . Ðã giao trọng trách như thế lẽ nào còn bắt chết ! Tôi e trong triều có điều gì gian trá xin Ðiên hạ về triều thĩnh tội để rõ ngay gian .
Phù Tô lắc đầu , nói :
- Bình nhật phụ vương tôi ghét bỏ tôi , nay bắt chết là do thánh ý , tôi không muốn cải lời .
Nói xong , sai quân đem thuốc độc đến , uống một hơi cạn chén .
Phù Tô chết, Mông Ðiềm thương tiếc vô cùng, ôm thây khóc mãi. Ba quân ngậm ngùi rơi lệ.
Diêm Nhạc thấy Phù Tô đã chết, trở về báo với Hồ Hợi .
Hồ Hợi liền làm lễ tức vị xưng hiệu là Nhị Thế hoàng đế .
Từ đó, quyền hành trong nước về tay Lý Tư và Triệu Cao chuyên chế.
Hai người lập ra hình pháp rất nghiêm khắc, cốt trấn áp lòng dân, mưu lợi riêng, không kể đến cái hại vong quốc sau này.Các quan đại thần trông thấy đều chán ngán, không muốn tham dự việc nước.
Vua Nhị Thế thấy Mông Ðiềm thống lãnh hơn ba vạn quân ngoài biên ải, còn thân thuộc đều ở nơi kinh thành, sợ sinh biến liền truyền chỉ đem chém hết.
Quan Ðại thần Tử Anh can :
- Tâu bệ hạ, họ Mông vốn dòng dõi đại thần, nay bệ hạ mới trị nước mà trừ bỏ đại thần e lòng dân ly tán. Xin bệ hạ dùng đức khoan hồng thay cho uy vũ để trị dân.
Nhị Thế không nghe, truyền đem tộc thuộc Mông Ðiềm giết hết.
Mông Ðiềm hay tin ấy, ngước mặt lên trời than :
- Nhà ta ba đời có công lớn với nước Tần, nay vua Tần tin dùng kẻ gian nịnh hủy hại tôi hiền. Ta cầm trong tay ba chục vạn quân, đủ sức phản lại. Nhưng thà chịu chết chứ
không để làm mất tiếng trung liệt của tổ tiên.
Ðêm ấy , Mông Ðiềm uống thuốc độc tự vận.
Vua Nhị Thế nghe tin Mông Ðiềm chết, lập tức truyền chỉ ra Thượng quận bắt anh em con cháu Mông Ðiềm đày qua Thục quận.
Bình nhật, Triệu Cao và Lý Tư chỉ sợ có Phù Tô và Mông Ðiềm , nay hai người ấy đều chết cả, nên không còn kiêng nễ ai nữa .
Trương Lương, họ Trương tên Lương, tự là Tử Phòng, người nước Hàn. Tổ tiên 5 đời của Trương Lương đều làm quan Tướng Quốc nước Hàn. Cha tên là Bình, làm Tướng Quốc cho vua Hàn là Ly Vương và Điệu Huệ Vương. Khi cha chết, Trương Lương còn ít tuổi nên chưa được tập ấm làm quan.
Khi nước Hàn bị Tần Thủy Hoàng đánh tan, sáp nhập vào nước Tần, lúc đó Trương Lương có 300 tôi tớ trong nhà.
Em của Lương chết, Lương không lo chôn cất, mà lo bán tất cả gia tài, giải tán các tôi tớ, dùng tiền đi tìm một người làm thích khách để giết vua Tần, báo thù cho nước Hàn.
Trương Lương thường học lễ ở Hoài Dương, đi về đông yết kiến một vị ẩn sĩ tên là Thương Hải Quân, tìm được một dũng sĩ họ Lê, thường gọi là Trưng Hải Công, xử dụng một đôi chùy nặng 120 cân.
Khi hay tin Tần Thủy Hoàng đi chơi qua miền đông, Trương Lương cùng với dũng sĩ rình núp ở bãi cát Bác Lãng, chờ khi xe của Tần Thủy Hoàng đi qua thì xông ra đánh, nhưng lại đánh nhầm xe của bọn tùy tùng. Tần Thủy Hoàng nổi giận, giết chết dũng sĩ họ Lê, rồi cho lịnh truy lùng bắt cho kỳ được Trương Lương.
Lương phải đổi tên họ, cải dạng, trốn tránh ở Hạ Bì.
Trương Lương ở Hạ Bì làm người nghĩa hiệp, Hạng Bá giết người bị tội, đến đây trốn lánh, được Lương che chở và giúp đỡ, tạo một cái nhân tốt về sau.
Mười năm sau (năm 209 tr.TL), Trần Thiệp khởi nghĩa chống lại nhà Tần, Trương Lương cũng tập hợp được hơn 200 trai tráng. Cảnh Câu ở đất Lưu tự lập làm Giả Vương nước Sở. Lương muốn theo phò, giữa đường Lương gặp Bái Công Lưu Bang. Bái Công có mấy ngàn quân đánh chiếm được đất ở phía Tây Hạ Bì. Lương bèn theo phò Bái Công.
Lương đem binh pháp của Thái Công ra trình bày với Bái Công, được Bái Công khen hay và dùng theo sách lược đó. Có lần Lương nói binh pháp cho người khác nghe thì họ tỏ ra không hiểu. Lương tự nhủ: Bái Công là người Trời chăng?
Vì vậy, Lương nhứt định theo Bái Công, không định theo Cảnh Câu nữa.
Bái Công đến đất Tiết, yết kiến Hạng Lương. Hạng Lương lập Sở Hoài Vương lên làm vua nước Sở. Trương Lương nói với Hạng Lương:
- Ngài đã lập cháu của vua Sở lên làm Sở Hoài Vương thì cũng nên lập công tử nước Hàn là Hành Dương Quân, tên là Thành, là người hiền lên làm vua nước Hàn để tăng thêm vây cánh.
Hạng Lương bằng lòng, lập Hành Dương Quân lên làm Hàn Vương.
Nhờ mưu kế của Trương Lương, Bái Công thắng quân Tần nhiều trận lớn, đến được kinh đô Hàm Dương trước Hạng Võ, vua Tần lúc bấy giờ là Tử Anh, cháu nội của Tần Thủy Hoàng, đem ấn tín ra hàng Bái Công.Bái Công vào kinh đô nhà Tần, thấy cung điện rất xa hoa lộng lẫy, cung phi mỹ nữ hàng ngàn, vật quí nhiều vô kể, nên có ý muốn ở lại đây. Phàn Khoái can gián hết lời nhưng Bái Công không nghe. Trương Lương nói:
- Nhà Tần làm điều vô đạo nên Chúa công mới đến được đây. Đã cốt vì thiên hạ mà giết bọn giặc tàn ác thì ta nên ở theo lối mộc mạc để tỏ cái đạo đức của mình. Nay Chúa công mới vào cung điện nhà Tần, liền ham thích cái vui đó thì có khác chi người ta nói 'nối giáo cho giặc'. Vả chăng lời nói thẳng nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm, thuốc đắng uống khó chịu nhưng chữa được bệnh. Xin Chúa công nên nghe theo lời của Phàn Khoái.
Bấy giờ Bái Công mới nghe theo, niêm phong kho tàng của nhà Tần, rồi kéo quân ra đóng ở Bái Thượng.
HạngVõ kéo quân đến Hàm Dương sau Bái Công, cho quân vào đốt phá cung điện của nhà Tần, giết chết Tử Anh, tịch thâu của cải, rồi tự xưng là Sở Bá Vương, phong cho Bái Công Lưu Bang là Hán Vương cai trị đất Ba Thục. Năm ấy là năm 206 trước Tây lịch, được kể là năm thứ nhứt của nhà Hán.
Hán Vương vì yếu thế hơn Hạng Võ nên phải tuân lịnh của Hạng Võ, kéo binh vào đất Ba Thục, rồi theo mưu kế của Trương Lương, Bái Công cho đốt con đường sạn đạo (con đường độc nhất đi vào Ba Thục) để cho Sở Bá Vương tin rằng Hán Vương an phận nơi đất Thục, không muốn tranh đoạt thiên hạ với Sở Bá Vương.
Khi đốt xong sạn đạo, Trương Lương từ giã Hán Vương Lưu Bang để lo việc nước Hàn và tìm người giúp Hán Vương đánh Hạng Võ, thâu phục thiên hạ.
Khi đến huyện Bửu Kê thì gặp được người nhà của Hạng Bá, cho biết Hạng Võ đã giết chết Hàn Vương của nước Hàn vì giận Trương Lương theo Lưu Bang bày kế đánh Hạng Võ. Trương Lương thất kinh, liền cải trang y phục, lo việc tống táng Hàn Vương, rồi giả làm đạo sĩ, đến kinh đô Hàm Dương, là nơi Hạng Võ đóng đại binh. Trương Lương dạy con nít ở đây hát bài đồng dao nói là Thần nhân dạy hát, để Hạng Võ nghe được thì bỏ Hàm Dương, về đóng đô ở Bành Thành, là nơi cố quán của Hạng Võ.
Trương Lương biết Hàn Tín là người có kỳ tài nhưng chưa gặp thời, nên tìm đến gặp Hàn Tín, tặng Hàn Tín cây Nguyên Nhung kiếm, viết thơ tiến cử Hàn Tín cho Hán Vương dùng làm Phá Sở Đại Nguyên Soái, rồi trao cho Hàn Tín bản đồ vẽ con đường tắt Trần Thương đi vào Ba Thục.
Khi Hán Vương phong Hàn Tín làm Phá Sở Đại Nguyên Soái, kéo binh đánh lấy Tam Tần, thì Trương Lương dự bị xong các việc, nên trở lại làm Quân Sư cho Hán Vương.
Bên ngoài cầm quân thì có Hàn Tín, còn mưu kế bên trong thì có Trương Lương, nên quân của Hán Vương đại thắng, dồn Sở Bá Vương chạy về thành Cai Hạ, nhưng binh sĩ của Hạng Võ cũng còn khá đông, lực lượng còn khá mạnh.
Trương Lương dụng mưu, lên ngọn Kê Minh sơn, vào lúc đêm khuya thanh vắng, thổi lên khúc tiêu sầu ai oán, khiến cho 8 ngàn đệ tử của Hạng Võ mất hết tinh thần chiến đấu, bỏ trốn về quê. Thanh thế của Hạng Võ trở nên rất yếu. Sau cùng Hạng Võ bị thất thủ thành Cai Hạ, chạy ra bến sông Ô Giang, tự cắt đầu tự tử.
Diệt Hạng Võ xong, Hán Vương Lưu Bang thâu phục thiên hạ, lên ngôi Hoàng Đế, hiệu là Hán Cao Tổ, mở ra nhà Hán. Hán Cao Tổ nói:
- Bàn mưu kế ở trong màn trướng, quyết định việc thắng bại ở ngoài ngàn dặm, đó là công của Tử Phòng. Nay phong Tử Phong ba vạn hộ ở đất Tề, cho Tử Phòng tự chọn lấy.
Trương Lương nói:
- Xưa kia, thần khởi nghĩa ở Hạ Bì, tới đất Lưu thì gặp Bệ hạ, đó là Trời đem thần giao cho Bệ hạ. Nay thần xin được phong ở đất Lưu là đủ rồi, không dám nhận ba vạn hộ ở Tề.
Hán Cao Tổ bèn phong Trương Lương làm Lưu Hầu ở đất Lưu.
Trương Lương thường hay cáo bịnh để khỏi tham dự vào việc triều chánh. Trương Lương thường nói: Gia đình tôi năm đời làm Tướng Quốc nước Hàn. Khi nước Hàn mất, tôi chẳng tiếc số tiền vạn lạng để tìm cách giết Tần Thủy Hoàng báo thù cho nước Hàn, nhưng không thành công. Nay tôi dùng ba tấc lưỡi làm thầy bậc Đế Vương, được phong vạn hộ, ở ngôi chư Hầu. Kẻ sĩ được như thế là tột bực, đối với Lương thế là đủ lắm rồi. Vậy xin bỏ việc nhân gian, chỉ muốn đi ngao du theo Huỳnh Thạch Công và Xích Tùng Tử mà thôi.
Thế rồi Trương Lương theo Đạo Tiên, học lối đạo dẫn (nhịn ăn cơm lần lần cho nhẹ mình), tồn tâm dưỡng tánh, không thiết tha đến công danh phú quí nữa.
Đúng như lời Cụ già đã nói với Trương Lương ở cầu Hạ Bì 10 năm về trước, Trương Lương tìm thấy cục đá màu vàng ở chân núi Cốc Thành, cung kính đem cục đá ấy về thờ.
Tám năm sau ngày Trương Lương được phong Hầu, Trương Lương mất, được đặt tên thụy là Văn Thành Hầu. Con của Trương Lương là Trương Bất Nghi đem táng Trương Lương cùng với viên đá vàng.
Cuộc đời của Trương Lương có 3 việc đáng ca tụng:
1. Cắp chùy Bác Lãng:
Trương Lương tìm được dũng sĩ họ Lê, sử dụng cặp chùy nặng 120 cân, núp ở bãi cát Bác Lãng, chờ Tần Thủy Hoàng đi qua, xông ra hành thích Thủy Hoàng. Việc thất bại, dũng sĩ họ Lê bị giết chết tại chỗ, Trương Lương trốn thoát, đến ẩn náo tại Hạ Bì.
3. Công thành thân thối:
Khi công danh thành đạt vinh hiển rồi thì rút lui, bảo toàn tấm thân, tìm đạo tu hành, lưu danh thiên cổ.
Trong lịch sử Trung Hoa, chỉ có hai vị làm được việc công thành thân thối nầy là: Phạm Lãi thời Đông Châu Liệt Quốc và Trương Lương thời nhà Hán.
Sau đây là bài thi của Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng:
Ác xế nâng cao bóng hải đường,
Xa tên nhờ bởi nặng cung trương.
Lòn trôn Hàn Tín nên cơ nghiệp,
Dâng dép Trương Lương dựng miếu đường.
Khương Thượng đi câu ra trí chúa,
Văn Vương ngồi ngục mới đồ vương.
Trượng phu phải mặt không nao chí,
Xung đột quyết hơn chốn chiến trường.
Lời Bàn:
Trương Lương có tính kiên nhẫn thật đáng khen. Nhưng trong cái kiên nhẫn của Trương Lương vẫn có sự tính toán. Sử gia Tư Mã Thiên nói: "Trương Lương định đánh lão già xấc xược này, nhưng thấy lão có vẻ tiên phong đạo cốt nên thôi". Trương Lương chịu khó lượm dép và xỏ dép ba lần cho lão là cốt để lão dạy cho điều gì đó, có thể là kỳ thư bảo điển, có thể là một tin tức bí mật, cũng có thể là một bảo vật ... Có lẽ Trương Lương đọc được điều ấy trong gương mặt lão mới chịu khó làm đến ba lần một việc trái tai gai mắt thế này. Hành động này không phải là kiên nhẫn mà muốn thủ lợi. Hành Động ấy còn tệ hơn Hàn Tín luồn trôn! Người đời cho Lương hiền trí, Hàn Tín là hèn hạ. Đó là quyền của họ. Tín giúp cơ nghiệp nhà Hán kéo dài đến 400 năm, nhưng vợ chồng Lưu Bang, Lã Trĩ là những kẻ độc ác, hay giết những người có đại công và đại tài. Hàn Tín bị Bang giết, còn Trưong Lương khéo nịnh hót, nên sử nhà Hán mới chửi Hàn Tín mà ca ngợi Trương Lương. Giả sử nhà Hàn thọ chừng vài mươi năm như Tần, thì người ta sẽ coi như một Lý Tư, chẳng khác tý nào!
Lương kiên nhẫn đến gặp lão già ấy ba lần cũng chỉ là để xin xỏ. Còn lão kia, ông Tiên Hoàng Thạch Công nào đó cũng có thể là một lão du hiệp như Đường Thư, lão muốn gởi gắm mối thù của mình vào Trương Lương trả dần (cũng giống như Lương đã nhờ Lê Hải Biên). Còn việc hòn đá vàng với 13 năm sau thì quá dễ. Lão cứ sai người đem hòn đá vàng dị dạng đến đặt nơi đó. Lương có đến thì gặp, không đến thì thôi, có sao đâu? Mặc dù thuở đó cũng có một đạo sĩ tên là Hoàng Thạch Công (tác giả của một bộ phong thủy xoàng xĩnh) khá nổi tiếng, nhưng người ta chỉ nghe tiếng đồn chứ không ai biết mặt, ngay cả những bộ chính sử tiền hậu Hán thư cũng không có. Mãi đến đời nhà Đường còn nghe lão xuất hiện đủ biết đây là chuyện hoang đường. Hơn nữa, Lương là tay xảo nguyệt khó mà tin lời của Lương được.

LƯU BANG
       
Hán Cao Tổ Cao Hoàng Đế, nhưng thường được gọi tắt là: Hán Cao Tổ (chữ Hán chính thể: 漢高祖, latin hóa: HànGāozǔ) (256 TCN  – 1 tháng 6 năm 195 TCN) là vị Hoàng đế sáng lập nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông họ Lưu tên Bang (劉邦), sử quan đời Hán chép là Lưu Quý vì ông là con thứ ba trong gia đình . Ông ở ngôi 8 năm (từ năm 202 TCN đến 195 TCN).
Theo Sử ký Tư Mã Thiên, Lưu Bang có nhiều tướng lạ. Ông không lo nghĩ đến sản nghiệp, không câu nệ chuyện nhỏ nhặt. Tính tình tuy khá buông thả (Sử ký mô tả là “thích rượu và gái”), song rộng rãi, sáng suốt, nhanh trí, khôi hài.
Lưu Bang từng phải đi phu ở Hàm Dương và trông thấy vua Tần Thủy Hoàng. Sau đó ông làm Đình trưởng ở Tứ Thượng. Từ đó, ông quen biết và thân thiện với những người như Hạ Hầu Anh, Tiêu Hà, Tào Tham.
Một lần ông phải đưa những người bị đày đến Lịch Sơn. Đường xa, nhiều người bỏ trốn. Thấy rằng đến nơi thì chẳng còn ai thì ông cũng bị xử tội, ông bèn tha hết những người còn lại và trốn theo họ vào vùng núi Mang. Những người này tôn ông làm thủ lĩnh.
Diệt Tần: Trần Thắng, Hạng Vũ, và Phàn Khoái
Khởi binh: Vua Tần Thủy Hoàng chết (210 TCN), Tần Nhị Thế lên thay, nhà Tần suy yếu. Tháng 7 năm 209 TCN, Trần Thắng và Ngô Quảng khởi nghĩa, khắp Sơn Đông, Hà Bắc các nơi nhao nhao hưởng ứng. Quan lại địa phương của nhà Tần không chế ngự được.
Trảm xà khởi nghĩa
Lưu Bang được huyện lệnh huyện Bái giao trọng trách đưa dân phu đi tới núi Lý Sơn đắp thành. Vốn sợ nặng nhọc, đi đến nữa đường, bọn dân phu trốn quá nữa, đêm đến nghĩ tại trạm Chãm Phong Tây, Lưu Bang thương tình cho trốn. Trong nhóm dân phu có hơn mười tráng sĩ đều nguyện đi theo giúp sức. Nửa đêm, Lưu Bang dẫn bọn dân phu chạy trốn, nhưng đi được một đoạn, bỗng gặp một con mãng xà dài hơn mười trượng, nằm chắn ngang đường, mọi người, ai nấy đều khiếp vía. Không sợ hãi, Lưu Bang cầm gươm chém đứt đôi rắn. Mọi người ngạc nhiên vì bình nhật Lưu Bang là người nhút nhát.
Thu phục huyện Bái
Quan huyện Bái thấy khắp nơi, anh hùng đứng lên khởi nghĩa nên cũng muốn khởi quân tham gia, hỏi kế huyện lại như Tiêu Hà, Tào Tham.
Tiêu, Tào khuyên quan huyện cho gọi nhóm của Lưu Bang về làm thanh thế. Quan huyện bèn sai Phàn Khoái mời Lưu Bang. Lưu Bang cùng đồng đảng đến nơi, quan huyện lại đổi ý, đóng cửa thành, lại muốn giết cả Tiêu, Tào vì sợ những người này làm nội ứng. Tiêu, Tào trốn theo Lưu Bang, bàn kế cho Lưu Bang bắn thư vào thành thuyết phục các bậc trưởng lão để họ cho con em đuổi quan huyện để đón mình. Kế thành công. Lưu Bang được tôn làm Bái Công lãnh đạo con em huyện Bái tham gia khởi nghĩa.
Các quan lại như Tiêu Hà, Tào Tham cùng Phàn Khoái đều tập hợp hai ba nghìn con em đất Bái theo Lưu Bang. Ông đánh quận Hồ Lăng và quận Phương Dư rồi về giữ đất Phong.
Tìm nơi nương tựa
Năm 208 TCN, Giám quận Tứ Xuyên của nhà Tần tên là Bình đem quân vây đất Phong. Lưu Bang xông ra đánh, thắng trận. Lưu Bang sai Ung Xỉ giữ đất Phong, còn mình đem binh đến đất Tiết, đánh thái thú ở Tứ Xuyên của nhà Tần tên là Tráng. Tráng bị đánh bại bỏ chạy đến huyện Thích, bị Tả tư mã của Lưu Bang bắt được và giết chết.
Lưu Bang quay về đóng quân ở Cang Phụ và đi đến quận Phương Dư. Cùng lúc đó tướng nước Ngụy là Chu Thị cũng đến đánh Phương Dư, nhưng chưa đánh trận nào. Chu Thị bèn sai người dụ Ung Xỉ đang giữ đất Phong. Ung Xỉ thuận hàng theo Ngụy.

Lưu Bang bị mất đất Phong rất tức giận nhưng sức không đủ chiếm lại. Lúc đó ông nghe tin nói Ninh Quân và Tần Gia đã lập Cảnh Câu làm Sở Giả vương ở thành Lưu để thay thếTrần Thắng bị hại, bèn đến theo họ, ý muốn xin quân để đánh đất Phong. Ninh Quân cùng Lưu Bang đem quân về phía tây đánh huyện Tiêu nhưng bất lợi, hai người đem quân trở về, tập hợp quân ở đất Lưu rồi đem binh đánh chiếm được đất Đường, thu binh được hơn 5000 người. Sau đó, ông đánh lấy được Hạ Ấp rồi cùng Ninh Quân đem quân về đóng gần đất Phong.

Ít lâu sau, Hạng Lương khởi binh ở đất Ngô, vượt sông Trường Giang, đánh diệt Tần Gia. Lưu Bang nghe tin Hạng Lương đóng quân ở thành Tiết, nên đem một trăm quân kỵ yết kiến. Hạng Lương cho Lưu Bang 5000 quân, 10 ngũ đại phu làm tướng.

Hạng Lương lập Mễ Tâm làm Sở Hoài vương để có danh nghĩa chống Tần rồi chia quân làm 2 cánh: tự mình đi đánh Chương Hàm, đồng thời sai Hạng Vũ đi cùng Lưu Bang đánh Thành Dương. Lưu Bang và Hạng Vũ làm cỏ dân Thành Duơng rồi đóng quân ở phía đông Bộc Dương, đánh bại quân Tần một trận nữa.

Quân Tần lại tập hợp lại, ở thành giữ Bộc Dương, dựa vào sông ngòi vây bọc để cố thủ. Lưu Bang và Hạng Vũ không hạ được bèn bỏ đi, đánh Định Đào nhưng không hạ được thành, lại đem quân về phía tây cướp đất. Hai tướng đi đến chân thành Ung Khâu, đánh nhau với quân Tần, chém được Thái thú quận Tam Xuyên của nhà Tần là Lý Do (con Tả thừa tướng Lý Tư) rồi quay về đánh Ngoại Hoàng nhưng không lấy được, lại đi đánh Trần Lưu.
Nhận lời giao ước

Hạng Lương coi thường quân Tần, bị Chương Hàm đánh bại và giết chết ở Định Đào. Lưu Bang và Hạng Vũ đang đánh thành Trần Lưu, nghe tin Hạng Lương chết, bèn đem binh phối hợp với quân của Lã Thần (tướng cũ của Trần Thắng) tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng: Lã Thần đóng quân ở phía đông Bành Thành; Hạng Vũ đóng quân ở phía tây Bành Thành; Lưu Bang đóng quân ở Đường.

Năm 207 TCN, Sở Hoài vương thấy Hạng Lương bị giết, bèn dời khỏi Vu Thai đóng đô ở Bành Thành, đích thân cầm quân của Lã Thần và Hạng Vũ, phong Lưu Bang làm quận trưởng quận Đường, tước Vũ An Hầu.

Bàn việc đánh Tần, Sở Hoài vương giao ước với chư hầu: "Ai vào Quan Trung trước làm vương"(Quang Trung Vương). Nghe lời các lão tướng, Hoài vương giao cho Lưu Bang mang quân thẳng đường phía tây đánh vào kinh đô nước Tần vì ông được cho là người trung hậu, còn Hạng Vũ thì tàn bạo hay giết chóc nên Hoài vương sai đi lên phía bắc cứu nước Triệu đang bị Chương Hàm vây đánh.
Tây tiến vào Hàm Dương

Lưu Bang đem quân đi về hướng tây gặp Bành Việt ở Xương Ấp, cùng nhau tấn công thành này nhưng không hạ được. Ông bèn chia tay Bành Việt quay về đến đất Lật, gặp Cương Vũ Hầu, cướp quân của Cương Vũ Hầu đuợc hơn 4000 người gộp vào quân mình, rồi cùng tướng nước Ngụy là Hoàng Hân, và Thân Đồ Vũ Bồ hợp lực đánh Xương Ấp nhưng chưa lấy được.

Lưu Bang bèn đem quân đi về hướng tây đến đất Cao Dương thì Nho sĩ Lịch Tự Cơ đến yết kiến. Tự Cơ khuyên Lưu Bang đánh úp thành Trần Lưu, nhờ vậy lấy được thóc lúa của nhà Tần để lại. Lưu Bang cho Lịch Tự Cơ làm Quảng Dã Quân, cho em Tự Cơ là Lịch Thương làm tướng, chỉ huy quân ở Trần Lưu và cùng họ đánh Khai Phong nhưng chưa lấy được Khai Phong.

Lưu Bang lại mang quân sang phía tây đánh nhau với tướng Tần là Dương Hùng ở Bạch Mã, lại đánh ở phía đông Khúc Ngộ, phá tàn quân của Dương Hùng, Dương Hùng bỏ chạy đến Huỳnh Dương. Tần Nhị Thế sai sứ giả chém Dương Hùng để răn mọi người. Lưu Bang mang quân về phía nam đánh Dĩnh Duơng, làm cỏ dân Dĩnh Dương.

Nghe theo kế của Trương Lương, ông tiến quân chiếm đất Hàn và đất Hoàn Viên. Cùng lúc đó tướng nước Triệu là Tư Mã Ngang đang muốn vượt sông Hoàng Hà để vào Quan Trung trước các chư hầu. Lưu Bang liền đánh Bình Âm ở phía Bắc, cắt đứt bên sông phía nam sông Hoàng Hà, chặn đường Tư Mã Ngang.

Sau đó ông quay sang đánh một trận ở phía đông Lạc Dương nhưng không thắng bèn rút lui về đến Dương Thành, tập hợp quân kỵ và ngựa ở trong quân, đánh nhau với thái thú Nam Dương là Nghị ở phía đông, đốt phá đánh bại quân của Nghị, cướp quận Nam Dương. Nghị bỏ chạy về giữ lấy Uyển Thành. Lưu Bang nóng lòng muốn bỏ qua đất này và đi về hướng tây vào Hàm Dương, nhưng Trương Lương cảnh báo ông sẽ bị Nghị đánh úp sau lưng. Vì vậy Lưu Bang dừng lại đánh Uyển Thành. Ông nhân lúc đêm tối đem quân đi một con đường khác, thay đổi tất cả cờ xí, lúc tảng sáng vây Uyển Thành ba vòng.

Thái thú Nam Duơng là Nghị sợ hãi muốn đâm cổ chết, nhưng nghe lời môn hạ là Trần Khôi khuyên, bèn đầu hàng. Lưu Bang phong cho Nghị làm Ân Hầu, phong cho Trần Khôi 1000 hộ.

Lưu Bang đem quân về đến sông Đan Thủy, Cao Vũ Hầu là Ngư, Tương Hầu là Vương Lăng đầu hàng nộp đất Tây Lăng. Lưu Bang quay lại đánh Hồ Dương, gặp biệt tướng của Bà quân Ngô Nhuế là Mai Quyên, bèn cùng Mai Quyên chiêu hàng đất Tích và đất Lịch.

Lưu Bang sai người nước Ngụy là Ninh Xương đi sứ đến Tần. Sứ giả chưa đến thì tướng Tần là Chương Hàm đã đem quân đầu hàng Hạng Vũ ở đất Triệu; các chư hầu đều theo Hạng Vũ.

Cuối năm 207 TCN, hoạn quan Triệu Cao giết Tần Nhị Thế và cho người đến gặp Lưu Bang, muốn giao ước chia đất Quan Trung và làm vương. Lưu Bang cho rằng Triệu Cao muốn đánh lừa, bèn dùng kế của Trương Lương, sai Lịch Tự Cơ và Lục Giả đến thuyết phục tướng của Tần, lấy lợi nhử y và nhân đó đánh và phá được Vũ Quan. Lưu Bang lại đánh nhau với quân Tần ở phía nam Lam Điền, càng treo thêm cờ xí để làm nghi binh, đi đến đâu thì cấm không được cướp bóc bắt bớ. Người Tần do đó mừng rỡ, quân đội Tần tan rã, Lưu Bang nhân đó thắng được quân Tần. Ông tiến quân lên phía bắc thắng quân Tần một trận nữa.

Tháng 10 năm 206 TCN, quân của Lưu Bang đến Bá Thượng trước quân chư hầu. Vua Tần là Tử Anh đi xe mộc do ngựa trắng kéo, ở cổ quấn sợi dây ấn, niêm phong ấn hoàng đế, phù và cờ tiết đầu hàng ở gần Chỉ Đạo. Lưu Bang cho Tử Anh đầu hàng. Các tướng có người bàn nên giết vua Tần, nhưng Lưu Bang không nghe theo.
Lui bước trước Hạng Vũ

Lưu Bang đi về phía tây vào Hàm Dương muốn dừng lại ở trong cung thất nhà Tần nghỉ ngơi. Phàn Khoái và Trương Lương can không nên, Lưu Bang mới niêm phong kho tàng, của quý báu của Tần rồi trở về đóng quân ở Bá Thượng, triệu tập các vị phụ lão và những thân hào ở các huyện đến và tuyên bố:"Ta cùng chư hầu giao ước: "Ai vào Quan Trung trước thì người ấy được làm vua". Vậy ta phải làm vua ở Quan Trung. Ta cam kết với các vị phụ lão rút gọn pháp luật và ban ba điều mà thôi: Ai giết người thì phải chết, làm người bị thương và ăn trộm thì theo tội mà xử. Còn bỏ tất cả luật pháp của Tần. Quan lại và nhân dân vẫn bình an như xưa. Ta đến đây chẳng qua là vì các vị phụ lão trừ hại chứ không phải cốt xâm phạm, làm việc hung bạo. Không có gì phải sợ. Vả lại ta sở dĩ quay về đóng quân ở Bá Thượng là để đợi quân của chư hầu đến định điều giao ước mà thôi."

Lưu Bang sai người cùng quan lại nhà Tần đi các huyện, các làng, các ấp tuyên truyền lệnh đó. Người Tần rất mừng, tranh nhau mang bò, dê, rượu , thức ăn đến để khao quân sĩ, nhưng Lưu Bang đều từ chối không nhận.

Có người hiến kế Lưu Bang nên giữ lấy đất Tần hiểm trở giàu có để chống lại chư hầu, án ngữ cửa Hàm Cốc không cho quân chư hầu vào, và trưng thêm quân ở Quan Trung cho thêm đông để chống lại. Lưu Bang cho là phải và theo kế đó.

Giữa tháng 11 năm 206 TCN, Hạng Vũ thống lĩnh quân chư hầu tiến vào nước Tần, tới cửa ải Hàm Cốc, nhưng ải đã bị phong tỏa. Hạng Vũ lại nghe nói Lưu Bang đã bình định được Quan Trung, rất tức giận, sai Anh Bố tấn công phá cửa Hàm Cốc.

Giữa tháng 12, Hạng Vũ đến đất Hỉ, tả tư mã của Lưu Bang là Tào Vô Thương muốn theo Hạng Vũ tiến thân bèn nói với Hạng Vũ rằng Lưu Bang có ý định chiếm cả Quan Trung. Mưu sĩ Phạm Tăng cũng khuyên Hạng Vũ đánh Lưu Bang. Hạng Vũ ra lệnh cho quân sĩ ăn no, định sáng mai thì đánh. Lúc bấy giờ quân Hạng Vũ có 40 vạn người, còn Lưu Bang chỉ có 10 vạn.

Chú Hạng Vũ là Hạng Bá muốn cứu bạn là Trương Lương đang phục vụ cho Lưu Bang nên đang đêm đến gặp Trương Lương, khiến ý định của Hạng Vũ bị lộ. Trương Lương dắt luôn Hạng Bá vào gặp Lưu Bang. Ông bèn kết thân với Hạng Bá, hẹn nhau làm thông gia và nhờ nói giúp với Hạng Vũ rằng mình không có ý định chống lại. Hạng Bá trở về khuyên Hạng Vũ, vì vậy Hạng Vũ thôi không khai chiến với Lưu Bang.

Hôm sau, Lưu Bang đến Hồng Môn yết kiến và xin lỗi Hạng Vũ. Hạng Vũ cho ông biết là do Tào Vô Thương đề nghị nên Hạng Vũ mới chuẩn bị giao chiến. Lưu Bang nhờ Phàn Khoáivà Trương Lương nên thoát nạn về. Về tới Bá Thượng, Lưu Bang bèn giết Tào Vô Thương.
Tranh thiên hạ với Hạng Vũ
Bài chi tiết: Chiến tranh Hán Sở
Bình định Tam Tần

Trở thành người đứng đầu chư hầu, Hạng Vũ phân chia lại các vùng đất không chỉ của Tần mà của cả các nước chư hầu khác có tham gia vào cuộc khởi nghĩa thành 19 nước. Hạng Vũ không thực hiện lời hứa của Sở Hoài Vương và nhanh chóng ám sát Hoài Vương. Thay vào đó Hạng Vũ chia Quan Trung 4 phần, với lý do Hán Trung cũng thuộc Quan Trung nên phong Lưu Bang làm Hán Vương cai trị vùng thuộc Tứ Xuyên, Trùng Khánh và phía nam Thiểm Tây hiện nay. Phần lớn đất Tần cũ, Hạng Vũ chia cho 3 tướng Tần theo hàng mình làChương Hàm (Ung vương), Đổng Ế (Địch vương) và Tư Mã Hân (Tắc Vương), gọi là Tam Tần để đề phòng Lưu Bang tiến về đông.

Tháng 4 năm 206 TCN, Lưu Bang trở về đất phong, được cấp 3 vạn quân. Theo lời khuyên của Trương Lương, ông đi qua đường sạn đạo xong liền đốt và cắt đứt đường sạn đạo để đề phòng quân chư hầu đánh úp, đồng thời để chứng tỏ cho Hạng Vũ thấy rằng mình không có ý đi về hướng đông.

Tướng sĩ dưới quyền ông nhiều người không muốn vào đất Thục hiểm trở mà muốn trở về quê ở phương đông. Khi đến Nam Trịnh, các tướng sĩ nhiều người trốn về. Theo sự tiến cử của Tiêu Hà và Hạ Hầu Anh, Lưu Bang bèn phong Hàn Tín – người vừa bỏ trốn từ nước Sở sang – làm đại tướng, giao cho việc đánh Sở.

Lúc đó Trương Lương lấy hịch chống Sở của Tề vương Điền Vinh đưa cho Hạng Vũ để lôi kéo Hạng Vũ chú ý tới nước Tề, khiến Sở Bá vương khởi đại quân đi đánh Tề mà không chú ý tới Lưu Bang.

Tháng 8 năm 206 TCN, Hán vương dùng mưu kế của Hàn Tín đi qua huyện Cố Đạo đánh úp Ung vương Chương Hàm. Chương Hàm bị quân Hán đánh bại ở Trần Thương, thua chạy đến đất Hạo Trĩ dừng lại đánh. Hàn Tín đánh bại Chương Hàm lần thứ 2, Hàm phải bỏ chạy về Phế Khâu cố thủ.

Lưu Bang đuổi theo, chiếm đất đai của Ung vương, một mặt điều quân vây Phế Khâu, mặt khác đi về đông đánh Hàm Dương và bình định Lũng Tây, Bắc Địa, Thượng Quân. Ông các tướng Tiết Âu, Vương Hấp ra khỏi ải Vũ Quan cùng Vương Lãng đi đón cha là Thái Công và vợ là Lã Trĩ đang ở đất Bái. Quân Sở nghe tin ấy cho quân chặn ở Dương Hạ nhưng cuối cùng quân Hán vẫn đến trước.

Năm 205 TCN, Hán vương đem quân đánh Tắc Vương Hân và Địch vương Ế và Hà Nam vương Thân Dương. Ba vua chư hầu không chống nổi phải đầu hàng.
Tiến vào Bành Thành

Hàn vương Trịnh Xương (được Hạng Vũ cử thay Hàn vương Thành) chống lại quân Hán không chịu hàng, bị Đại tướng Hàn Tín đánh bại. Sau khi đánh chiếm nước Hàn, Lưu Bang lập viên tướng và là dòng dõi nước Hàn cũ, cũng tên là Hàn Tín làm Hàn vương.

Tháng ba năm đó, Hán vương từ Lâm Tấn vượt qua sông đánh Ngụy. Tây Ngụy vương Báo đầu hàng, đem binh theo Hán vương lấy Hà Nội. Ân vương Tư Mã Ngang bị bắt. Hán vương bèn vượt qua sông Hoàng Hà ở bến Bình Âm, rồi đem quân đến Lạc Dương. Đến Tân Thành, ông được nhân dân báo cho biết Sở Nghĩa Đế đã bị Hạng Vũ sát hại. Hán vương bèn để tang Nghĩa đế và tuyên bố vì Nghĩa Đế mà đánh Sở bá vương Hạng Vũ. Hán vương tập hợp tất cả quân ở Quan Trung, binh sĩ Hà Nam, Hà Đông, Hà Nội được 56 vạn người, đi xuống phía nam đánh Sở.

Lúc bấy giờ Hạng vương đang đem quân về hướng bắc đánh Tề, chưa bình định được. Nhân cơ hội ấy Hán vương thúc ép quân năm nước chư hầu đánh vào Bành Thành, kinh đô Tây Sở.

Sau khi chiếm được Bành Thành, Hán vương không chú ý phòng thủ, sa vào hưởng thụ. Hạng Vũ nghe tin, đem 3 vạn quân từ đất Tề trở về đánh Bành Thành, đại phá quân Hán. Cha ông là Thái công cùng vợ Lã Trĩ bị quân Sở bắt. Hán vương bị quân Sở vây bọc, may lúc đó có trận gió thổi cát bụi mù mịt, ông bèn nhân đó chạy thoát ra khỏi vòng vây. Ông được Hạ Hầu Anh đánh xe chạy trốn, bị quân Sở đuổi phía sau. Giữa đường gặp con trai Lưu Doanh cùng con gái. Sợ xe nặng đi chậm, Lưu Bang đẩy hai con nhỏ ra khỏi xe. Hạ Hầu Anh vội nhảy xuống bế lên. Lưu Bang thấy quân Sở đuổi gần lại đẩy con xuống. Cứ như vậy 3 lần nhưng Hạ Hầu Anh đều xuống cứu hai con ông, cuối cùng cả 4 người đi thoát.
Nguy cấp ở Huỳnh Dương

Lưu Bang chạy đến Hạ Ấp do người anh của Lã Trĩ là Lã Trạch trấn thủ, tập hợp lại lực lượng. Tắc vương Tư Mã Hân và Địch vương Đổng Ế thấy Sở mạnh lên lại bỏ Hán theo Sở. Ngụy vương Báo cũng lấy lý do về thăm nhà và tuyệt giao với Hán.

Hán vương sai Tùy Hà đi sang quận Cửu Giang dụ chư hầu của nước Sở là Anh Bố đang bất mãn với Sở Bá vương. Anh Bố đồng ý phản Sở, bị tướng Sở là Long Thư đánh bại, bèn chạy về với Lưu Bang. Cùng lúc, quân Hán tháo nước sông vào thành Phế Khâu, hạ được thành. Ung vương Chương Hàm tự sát. Đất Tam Tần hoàn toàn thuộc về Lưu Bang.

Hán vương sai Lịch Tự Cơ sang nước Ngụy khuyên Ngụy Báo trở lại theo Hán nhưng Ngụy Báo không nghe. Ông bèn sai tướng quân Hàn Tín mang quân đánh Ngụy, bắt sống Ngụy Báo mang về Huỳnh Dương. Sau đó ông sai Hàn Tín cùng Trương Nhĩ đi đánh nước Triệu. Sau khi hai tướng diệt được Triệu, ông lập Trương Nhĩ làm Triệu vương.

Lúc đó Lưu Bang đóng quân ở Huỳnh Dương, phía nam xây đường ống ra đến sông Hoàng Hà để lấy thóc ở Ngao Thương, chống cự lại cuộc tấn công của Hạng Vũ. Hai bên giằng co hơn một năm. Hạng Vũ mấy lần đưa quân cướp đường ống của Hán làm quân Hán bị thiếu lương thực. Lưu Bang lo lắng, bèn xin giảng hòa và cắt đất từ Huỳnh Dương đến phía tây cho Hán, nhưng Hạng Vũ không nghe.

Nhân lúc đó có sứ giả của Hạng Vũ đến, Lưu Bang bèn dùng kế của Trần Bình, giả bộ nhầm với sứ giả của mưu sĩ Phạm Tăng bên Sở, nhằm làm Hạng Vũ nghi ngờ Phạm Tăng tư thông với mình. Quà nhiên Hạng Vũ ngờ vực Phạm Tăng khiến Phạm Tăng giận xin rời chức vụ rồi uất ức qua đời.

Hạng Vũ mất Phạm Tăng nhưng vẫn tăng cường công hãm Huỳnh Dương. Trước tình hình nguy cấp, tướng Kỷ Tín tình nguyện đóng giả làm Lưu Bang giả cách xin đầu hàng. Nửa đêm, Lưu Bang cho Kỷ Tín ngồi vào xe vàng của mình ra hàng, cho hơn hai nghìn người con gái mặc áo giáp giả làm quân Hán hộ vệ Hán vương đi ra cửa phía đông. Quân Sở đều xúm lại phía đông thành để xem mặt Hán vương, nhờ đó Lưu Bang cùng các tướng thoát ra cửa tây với vài chục quân kỵ và bỏ trốn, chỉ để lại Chu Hà, Ngụy Báo, Hàn vương Tín và Tung Công giữ Huỳnh Dương.
Trốn khỏi Thành Cao
Sau khi ra khỏi Huỳnh Dương, Hán vương vào Quan Trung, tập hợp quân sĩ do Tiêu Hà động viên đưa ra, lại định đi về huớng đông đánh Sở. Viên Sinh hiến kế với Lưu Bang, đề nghị ông nên cố thủ không giao tranh với quân Sở, và sai Hàn Tín đi đánh các nước Yên, Tề để chặt vây cánh của Sở, sau đó mới ra quân đánh Sở khiến Hạng Vũ phải đối phó nhiều mặt.

Lưu Bang nghe theo, bèn cho quân đi ra ở giữa miền Uyển và Diệp, cùng hàng tướng Anh Bố tập hợp quân sĩ. Quả nhiên Hạng Vũ nghe tin Lưu Bang di chuyển bèn đem binh xuống phía nam. Quân Hán giữ vững thành trì không đánh nhau với Sở. Trong khi đó, Bành Việt đã vượt qua sông Tuy Thủy đánh vào hậu phương nước Sở, chiếm Hạ Bì.

Hạng Vũ phải đem binh về hướng đông đánh Bành Việt, Lưu Bang cũng đem quân về hướng bắc đóng quân ở Thành Cao. Sau khi đã đánh quân Bành Việt thua chạy, Hạng Vũ nghe tin Hán Vương đã về Thành Cao, lại đem binh về hướng tây lấy Huỳnh Dương, giết Chu Hà, Tung Công, cầm tù Hàn vương Tín, rồi bao vây Thành Cao.

Quân Hán không chống cự nổi, Lưu Bang phải chạy trốn một mình cùng Hạ Hầu Anh ngồi một xe theo cửa ngọc môn ra khỏi Thành Cao chạy lên phía bắc, vượt sông Hoàng Hà, chạy nhanh đến Tu Vũ nghỉ đêm ở đấy, tự xưng là sứ giả. Sáng sớm hôm sau ông ruổi ngựa vào thành của Trương Nhĩ, Hàn Tín, cướp ấn tướng quân của Hàn Tín và nắm lấy quân của hai người. Sau đó ông sai Trương Nhĩ đi về hướng bắc thu thập thêm quân ở Triệu, sai Hàn Tín đi về hướng đông đánh nước Tề.
Tái chiếm Thành Cao

Sau khi đã nắm được quân của Hàn Tín, uy thế Lưu Bang lại mạnh. Nghe theo lời khuyên của lang trung Trịnh Trung, ông đắp thành đào hào cố thủ không giao tranh với quân Sở, và sai Lư Quán cùng Lưu Giả đem hai vạn quân và vài trăm quân kỵ vượt bến Bạch Mã, vào đất Sở cùng với Bành Việt đánh phá quân Sở phía tây đất Yên, đất Quách, rồi lấy lại hơn mười thành đất Lương. Theo đề nghị của Lịch Tự Cơ, Lưu Bang sai Lịch Tự Cơ đi thuyết Tề vương Điền Quảng theo Hán.

Hàn Tín đã được lệnh đi về hướng đông nhưng chưa vượt qua sông ở Bình Nguyên thì Lịch Tự Cơ đã thuyết phục được Tề vương Điền Quảng phản lại Sở, hòa với Hán để cùng đánh Hạng Vũ. Hàn Tín dùng kế của Khoái Triệt, đánh úp và đại phá quân Tề. Tề vương Quảng tưởng bị Lịch Tự Cơ lừa bèn giết Tự Cơ bỏ chạy và cầu viện Sở. Hạng Vũ sai Long Thư và Chu Lan đến đánh Hàn Tín, nhưng bị Hàn Tín tiêu diệt.

Trong khi đó Bành Việt cầm quân ở đất Lương, qua lại làm khổ quân Sở, cắt đứt đường lương thực của quân Sở.

Năm 203 TCN, Hạng Vũ đánh chiếm được Thành Cao rồi, phải quay về đánh Bành Việt lần thứ 2, giao lại Thành Cao cho Tào Cữu, Tư Mã Hân và Đổng Ế. Lưu Bang điều quân đến đánh Thành Cao. Tào Cữu tức giận vì bị khiêu khích, không nhớ lời dặn phải phòng thủ của Hạng Vũ, mang quân ra đánh và bị thảm bại. Cả 3 tướng Sở đều tự vẫn. Lưu Bang đoạt lại được Thành Cao.

Cùng lúc đó Hàn Tín đánh xong viện binh của Long Thư nước Sở bèn sai sứ tới đề nghị Lưu Bang phong làm Tề giả vương. Lưu Bang nổi giận định không cho, nhưng Trương Lương và Trần Bình khuyên ông nên chấp thuận đề lợi dụng Hàn Tín đánh Sở. Lưu Bang bằng lòng, sai Trương Lương đi phong Hàn Tín làm Tề vương.
Hòa ước Hồng Câu

Hạng Vũ đánh mãi không thắng bèn mang cha Lưu Bang là Thái công ra đặt lên thớt để buộc ông phải hàng, dọa nếu không hàng thì giết Thái công. Lưu Bang không nao núng, trả lời Hạng Vũ:Ta và ngươi đã kết làm anh em, cha ta cũng như cha ngươi. Nếu ngươi muốn giết cha ngươi thì cho ta xin bát canh với

Hạng Vũ nghe nói như vậy đành thôi ý định dùng Thái công để dọa ông.

Sau đó Lưu Bang và Hạng Vũ gặp nhau ở Quảng Vũ đối trận. Hai bên giáp mặt nói chuyện. Hạng Vũ muốn một mình khiêu chiến với Lưu Bang, ông bèn kể tội 10 tội của Hạng Vũ. Hạng Vũ rất tức giận, ngầm bắn trúng Lưu Bang. Ông bị trúng tên ở bụng nhưng lại sờ vào ngón chân kêu đau, khiến tướng sĩ nghĩ rằng ông bị thương nhẹ.

Hai bên thu quân về. Lưu Bang bị thương nặng phải nằm. Trương Lương ép nài ông cố gắng dậy đi úy lạo quân sĩ để quân sĩ an lòng đừng cho quân Sở thừa cơ đánh thắng Hán. Vì ông cố đi ra trước hàng quân bệnh càng nặng thêm. Sau đó ông chạy vào Thành Cao.

Ít lâu sau khỏi bệnh, ông vào Quan Trung tập hợp thêm binh sĩ rồi trở lại Quảng Vũ. Lúc đó Bành Việt cầm quân ở đất Lương, luôn cắt đứt lương thực của quân Sở. Hạng Vũ mấy lần đánh Bành Việt thì Tề vương Hàn Tín lại tiến quân đánh Sở. Do đầu đuôi không cứu được nhau, Hạng Vũ lo lắng bèn cùng Lưu Bang giao ước chia khoảng giữa thiên hạ.

Theo giao ước, cắt đất từ Hồng Câu về phía tây là của Hán; từ Hồng Câu về phía đông là của Sở. Hạng vương trả lại cha và vợ Hán vương.

Sau đó hai bên trở về và từ biệt ra đi mỗi người một phía: Hạng Vũ từ giã đem quân về phía đông.
Xé bỏ hòa ước

Lưu Bang định làm theo hòa ước đem quân về phía tây nhưng Trần Bình và Trương Lương khuyên ông nên xé bỏ hòa ước, tiến quân đuổi đánh Hạng Vũ để nhanh chóng diệt Sở

Lưu Bang nghe theo, bèn tiến quân đuổi theo, dừng lại ở Dương Hạ, hẹn các chư hầu cùng đánh Sở. Nhưng khi đại quân Lưu Bang tới Cố Lăng thì quân Hàn Tín, Bành Việt vẫn không đến. Kết quả quân Hán bị quân Sở đánh cho đại bại. Lưu Bang lại vào thành, đắp thành cao, đào hào sâu để giữ.

Theo kế của Trương Lương, ông sai sứ đi đề nghị Hàn Tín và Bành Việt ra quân, hứa sẽ phong cho 2 người ở nước Tề và nước Lương sau khi thành công. Mặt khác, ông gọi thêm các hàng tướng nước Sở như Anh Bố, Chu Ân cùng Lưu Giả đánh vào hậu phương của Hạng Vũ.

Năm 202 TCN, Hàn Tín và Bành Việt mang đại quân đến họp. Các cánh quân cùng vây đánh Hạng Vũ ở Cai Hạ. Quân Hán quá đông khiến Hạng Vũ không địch nổi, phải rút vào thành Cai Hạ. Sau đó quân Sở tan rã, Hạng Vũ bỏ thành chạy. Lưu Bang sai kỵ tướng quân Quán Anh đuổi theo. Hạng Vũ chạy đến Ô Giang thì tự vẫn, nước Sở hoàn toàn bị tiêu diệt.
Cai trị: Xưng đế và phân phong
Thắng trận, Lưu Bang vội vã trở về đến Định Đào, phi ngựa vào thành của Tề vương Tín, cướp quân của Hàn Tín lần thứ 2.

Sau khi diệt Sở, Lưu Bang lên ngôi hoàng đế ở phía bắc sông Tự Thủy, tức là Hán Cao Tổ. Ông tôn cha là Thái công làm Thái thượng hoàng, lập Lã Trĩ làm hoàng hậu, con trai Lã Trĩ là Lưu Doanh làm thái tử.

Ông phân phong các công thần làm chư hầu như sau:
Cải Tề vương Hàn Tín làm Sở vương, đóng đô ở Hạ Bì.
Lập Kiến Thành hầu Bành Việt làm Lương Vương, đóng đô ở Định Đào
Lập vua Hàn trước là Tín làm Hàn vương, đóng đô ở Dương Địch.
Dời Hành Sơn vương Ngô Nhuế làm Trường Sa vương, đóng đô ở Lâm Tương.
Hoài Nam vương Anh Bố, Yên Vương Tạng Đồ, Triệu vương Trương Ngao, Lâm Giang vương đều như cũ.

Hán Cao Tổ đóng đô ở Lạc Dương là kinh đô cũ của nhà Đông Chu.
Đóng đô ở Quan Trung

Theo Sử ký, ban đầu Hán Cao Tổ muốn đóng đô ở đất Lạc Dương vĩnh viễn. Lâu Kính người nước Tề nói với Trương Lương. Trương Lương khuyên ông đóng đô ở Quan Trung. Ngay hôm ấy, Cao Tổ lên xe ngựa đến Quan Trung và chọn Tràng An nơi đây làm kinh đô.
Chính sách:  Sau khi lên ngôi hoàng đế, Hán Cao Tổ tái tập trung quyền lực quốc gia theo hệ thống nhà Tần. Ông dần thay thế những tướng cũ, phong đất cho họ và gia đình. Bởi vì nền kinh tế đã bị tàn phá bởi chiến tranh sau sự sụp đổ nhà Tần, ông giảm thuế và giảm bắt dân đi phu, phát triển nông nghiệp, hạn chế chi tiêu. Tuy nhiên, vì đã chứng kiến điều mà ông cho là sự suy đồi của giới nhà buôn thời Tần, ông hạn chế thương mại bằng cách áp đặt thuế cao và luật hóa các quy định đối với nhà buôn. Thời Cao Tổ, tư tưởng Nho gia dần thay thế tư tưởngPháp gia; các nhà nho được trọng dụng trong triều, trong khi các luật pháp hà khắc của Pháp gia được nới lỏng.
Đối với chư hầu:  Hàn Tín, Hàn vương Tín, Bành Việt, Tạng Đồ, và Lư Quán
Hán Cao Tổ cũng rất quan tâm tới việc hạn chế thế lực của các chư hầu là công thần được phân phong. Ông lần lượt trừ khử hoặc phế truất các công thần làm vua chư hầu và phong cho các hoàng tử cũng như những người khác trong hoàng tộc thay thế. Đồng thời, ông giao ước với các quan đại thần rằng:“ Ai không phải họ Lưu mà làm vương thì thiên hạ cùng đánh nó. ”
Việc trừ khử các chư hầu được Lưu Bang tiến hành ngay từ khi mới lên ngôi hoàng đế.
Tề: Sau khi cải phong Tề vương Hàn Tín làm Sở vương, Lưu Bang phong cho con lớn là Lưu Phì làm Tề vương
Lâm Giang: Theo ghi chép của Sử ký, Lâm Giang vương phản Hán, Cao Tổ sai Lư Quán, Lưu Giả mang quân đến bao vây nhưng không hạ được thành. Mấy tháng sau Lâm Giang vương đầu hàng và bị giết ở Lạc Dương.
Sở: Năm 200 TCN, Hán Cao Tổ lấy cớ nghi Hàn Tín làm phản vì có người tố giác, bèn theo kế của Trần Bình giả cách ra chơi ở Vân Mộng gần chỗ trấn nhậm của Hàn Tín. Hàn Tín vội ra đón rước, liền bị Lưu Bang bắt giữ mang về kinh đô và giáng làm Hoài Âm hầu. Tới năm 196 TCN, Hàn Tín bị Lã Hậu giết tại kinh đô khi Lưu Bang đang đi đánh Trần Hy. Lưu Bang chia nhỏ nước Sở, lập người con thứ 6 là Lưu Hữu làm Hoài Dương vương, người cháu là Lưu Giao làm Sở vương, Lưu Giả làm Kinh vương.
Lương: Năm 197 TCN, Trần Hy làm phản. Lưu Bang triệu tập Lương vương Bành Việt đến hội quân để đánh Hy, nhưng Bành Việt cáo ốm không đi, chỉ cho bộ tướng đi thay. Lưu Bang bèn sai sứ bất ngờ đến bắt ông và giải về Lạc Dương. Lưu Bang nghĩ Bành Việt có công lao nên không giết mà chỉ đày vào huyện Thanh Y đất Thục. Đi nửa đường đến đất Trịnh, Bành Việt gặp Lã Hậu từ Tràng An ra Lạc Dương, bèn đến xin nhờ Lã hậu nói với Hán Cao Tổ tha tội. Lã hậu nhận lời, nhưng khi trở về Lạc Dương lại khuyên Lưu Bang giết Bành Việt. Lưu Bang giết Bành Việt và phong người con thứ 5 là Lưu Khôi làm Lương vương.
Triệu: Triệu vương Trương Ngao vốn là con rể Hán Cao Tổ. Do Lưu Bang có hành động sỉ nhục Trương Ngao trong lần đến nước Triệu năm 199 TCN, các thủ hạ của Trương Ngao có ý định giết Lưu Bang để trả thù. Năm 198 TCN, ý đồ ám sát lộ ra, các thủ hạ nhận tội, nhất định nói Trương Ngao không biết việc ám sát. Trương Ngao vẫn bị truất ngôi Triệu vương, bị giáng làm Tuyên Bình hầu. Lưu Bang phong cho người con thứ 3 là Lưu Như Ý làm Triệu vương.
Hàn: Năm 201 TCN, Lưu Bang dời Hàn vương Tín sang vùng Thái Nguyên xa xôi ở phía bắc, đóng đô ở Mã Ấp, tiếp giáp với Hung Nô. Cùng năm, vua Hung Nô là Mặc Đốn mang quân vây đánh Mã Ấp. Hàn Vương Tín không chống nổi, nhiều lần phải cầu hoà. Lưu Bang nghe tin Hàn vương Tín nhiều lần cầu hoà với Hung Nô nên nghi Tín làm phản, sai sứ đến khiển trách. Hàn Vương Tín lo sợ, bèn quay sang đầu hàng Hung Nô và cùng Hung Nô đánh Hán. Năm 197 TCN, ông sai Vương Hoàng đi thuyết phục Trần Hy làm phản nhà Hán. Tướng Hán là Sài Vũ tấn công Tham Hợp, giết chết Hàn Vương Tín.
Đại: Năm 197 TCN, sau khi diệt Trần Hy ở nước Đại, Lưu Bang phong con thứ 4 là Lưu Hằng làm Đại vương
Hoài Nam: Sau khi giết Lương vương Bành Việt, Lưu Bang sai người lấy thịt Việt làm mắm gửi cho các chư hầu. Năm 195 TCN, Hoài Nam vương Anh Bố sợ mình sẽ bị thanh trừng bèn cất quân chống lại. Anh Bố giết chết Kinh vương Lưu Giả và đánh tan Sở vương Lưu Giao, nhưng sau đó Lưu Bang cầm quân đi tiêu diệt được Anh Bố. Dẹp xong, Lưu Bang phong cho con thứ 7 là Lưu Trường làm Hoài Nam vương, cháu là Lưu Tỵ làm Ngô vương.
Yên: Sử ghi Tháng 10 năm 201 TCN, Yên vương Tạng Đồ làm phản. Cao Tổ thân hành cầm quân đánh, bắt đuợc Yên vương Tạng Đồ, lập thái úy Lư Quán (vốn là bạn thân) làm Yên vương. Năm 195 TCN, sau khi Hàn Tín, Bành Việt, Anh Bố, Trần Hy đều bị giết, đến lượt Lư Quán bị nghi có mưu phản. Lưu Bang sai Phàn Khoái mang quân đi đánh Yên. Lư Quán biết không giữ được nước Yên, bèn mang gia quyến cùng vài ngàn quân rời bỏ nước Yên chạy ra Vạn Lý Trường Thành. Lưu Bang đã ốm nặng, bèn lập con thứ 8 là Lưu Kiến làm Yên vương, rồi qua đời. Lư Quán không thể phân trần với Lưu Bang, đành phải chạy sang hàng Hung Nô.
Đối ngoại: Năm 201 TCN, Hung Nô tấn công nhà Hán, Hàn vương Tín đầu hàng. Mùa đông năm 200 TCN, Hán Cao Tổ đích thân ra quân đánh Thiền vuHung Nô là Mặc Đốn, không nghe theo lời khuyên của Lâu Kính.

Tại trận Bạch Đăng, 7 vạn quân Hánbị khoảng 300.000 kỵ binh Hung Nô bao vây. Cao Tổ bị cắt nguồn tiếp tế và cứu trợ trong 7 ngày, trong hoàn cảnh rất nguy khốn. Ông phải sai người đến thuyết phục vợ Mặc Đốn là Yên Chi tác động, Mặc Đốn mới rút quân.

Sau thất bại tại Bình Thành, Hán Cao Tổ từ bỏ giải pháp quân sự đối với mối đe dọa từ phía Hung Nô. Ông quyết định nhân nhượng Hung Nôbằng cách gả con gái các gia đình quý tộc cho Thiền vu Hung Nô. Chính sách này đã kéo dài liên tục trong 70 năm.
Truyền ngôi:   Lã hậu và Hán Huệ Đế
Năm 195 TCN, Hán Cao Tổ đi dẹp loạn Anh Bố. Ông bị trúng tên độc, sau lâm bệnh nặng và qua đời, hưởng thọ 63 tuổi. Ông được truy tônmiếu hiệu là Cao Tổ, thụy hiệu là Cao Hoàng đế, cũng được gọi là Hán Cao Đế.

Thái tử Lưu Doanh, con trai cả Cao Tổ với Lữ Hậu, là người thừa kế ngôi báu, tức là Hán Huệ Đế. Tuy nhiên, Cao Tổ vốn không thích Lưu Doanh vì cho rằng Doanh quá yếu đuối. Con trai Thích phu nhân, người thiếp yêu của ông, là Như Ý được ông định lập lên thay Thái tử nhưng bất thành vì các quan trong triều vẫn trung thành với Thái tử và Lữ Hậu. Ông bèn phong Như Ý làm Triệu Vương.

Sự sủng ái của Hán Cao Tổ dành cho Thích Phu nhân và Như Ý khiến Lã hậu căm giận. Sau khi Huệ Đế lên nối ngôi, Lã Hậu nắm hết quyền lực trong tay, đầu độc giết Như Ý và tra tấn đến chết Thích Phu nhân. Ngoài ra, nhiều người con khác của Lưu Bang cũng lần lượt bị Lã Hậu giết.
Tên và các danh hiệu

Trước khi Lưu Bang lên ngôi, chức tướng đứng đầu triều được gọi là tướng bang. Kết quả khảo cổ còn cho thấy những chữ “tướng bang Lã Bất Vi” (nước Tần) khắc trên cái qua hay ấn “tướng bang Hung Nô”. Từ khi ông lên làm vua, chức này được đổi gọi là tướng quốc vì kiêng tên húy của ông. Những vị tướng quốc đầu thời Hán như Tiêu Hà, Tào Tham đều là công thần khai quốc sống cùng thời với ông.

Khi Lưu Bang nổi dậy để hưởng ứng theo Trần Thắng, được mọi người gọi là Bái công (沛公). Sau đó ông được Sở Hoài vương phong làm Vũ An hầu trước khi giao ước đi đánh Tần cùng Hạng Vũ nhưng danh hiệu này ít được nhắc đến.

Khi diệt nhà Tần, ông cũng được Hạng Vũ phong làm Hán vương và thường được gọi bằng chức vị này cho tới khi lên ngôi hoàng đế. Sau khi mất, ông được tôn miếu hiệu là Cao Tổ, nên thường gọi Hán Cao Tổ, chôn ở Trường Lăng.
Xuất thân: Xuất thân của Lưu Bang từ một nông dân bình thường và được các sử gia cổ đại thêu dệt nhiều yếu tố thần thoại để chứng minh ông là “chân mệnh thiên tử”. Các sử gia hiện đại chỉ ra rằng: câu chuyện bà mẹ ông thụ thai với rồng chỉ là sự tưởng tượng và là biểu hiện của tàn dư xã hội mẫu hệ “có mẹ mà không có cha”. Chuyện khi ông đi lẩn trốn có mây lành, được cụ già xem bói tiên tri định mệnh phú quý, Tần Thủy Hoàng thấy phía đông nam có khí thiên tử là ứng vào Lưu Bang hay việc ông chém rắn thần… ngoài chính những người thân trong gia đình ông thì người ngoài đều không thể nào kiểm chứng. Sau khi ông giành thiên hạ, những người không phải thân thích của ông chứng kiến những thời khắc đó không ai xuất hiện. Mặt khác, dù không tin vào những chuyện thần thoại đó thì đương thời không ai dám công khai phủ nhận

Sau cái chết của Trần Thắng và Ngô Quảng, những người tranh hùng thiên hạ khi đó đều có địa vị xã hội cao hơn chức Đình trưởng của Lưu Bang và có sức hiệu triệu thiên hạ lớn hơn Lưu Bang. Bản thân ông chỉ có 3000 quân, khi bị Ung Xỉ phản bội thì ngay việc quay về đánh chiếm lại quê hương là đất Phong cũng không nổi, phải bôn ba đi xin quân của Tần Gia, Hạng Lương.
Tư cách:   Lưu Bang bị giới sử học đánh giá là một hoàng đế có tư cách vô lại, nhưng không thể phủ nhận vai trò của ông đối với lịch sử Trung Quốc.
Khi chinh phục thiên hạ
Theo đánh giá của các nhà sử học, Lưu Bang hoàn toàn trái ngược với đối thủ Hạng Vũ. Trong khi Hạng Vũ thường được thể hiện là một người lãng mạn và quý phái, Lưu Bang thường bị coi là thô lỗ. Hạng Vũ luôn tỏ ra nhân đức đối với các tướng và lính tráng, nhưng lại là một nhà chính trị kém cỏi. Trong khi đó Lưu Bang xuất thân thấp, ít học, tự biết mình tài năng không có bao nhiêu, nên ông sẵn sàng lắng nghe ý kiến của người khác, tận dụng tài năng của cấp dưới để thành sự nghiệp.

Lưu Bang gặp Lịch Tự Cơ với thái độ bất lịch sự, nhưng khi hiểu ra đã nhanh chóng sửa đổi; khi ông tiến vào Hàm Dương cũng ham hưởng thụ, nhưng đã dừng lại theo lời khuyên của Trương Lương, Phàn Khoái để lấy lòng người; khi ông bị Hạng Vũ phong làm Hán vương, đẩy vào đất Thục từng phẫn nộ muốn đánh trả ngay, song biết nhẫn nhịn theo ý kiến Tiêu Hà,Chu Bột để chờ thời cơ thuận lợi; ông cũng tức giận khi Hàn Tín đòi phong Tề giả vương, nhưng khi thấy Trương Lương, Trần Bình ghé tai góp ý đã chiều lòng Hàn Tín để tận dụng binh lực của Hàn Tín diệt Sở… Những việc làm đó của Lưu Bang khác hẳn với Hạng Vũ ỷ vào tài năng, tư cách, chỉ làm theo ý mình, không lắng nghe lời góp ý. Trong nhiều hoàn cảnh khó khăn và đáng bất bình, Lưu Bang biết tự kiềm chế mình, lắng nghe ý kiến của người khác nên thu phục được nhân tâm

Lưu Bang diệt Tần trong điều kiện thuận lợi hơn Hạng Vũ: ông được phân công đi đường thẳng về phía tây vào nước Tần, không như Hạng Vũ phải vòng lên phía bắc; ông không phải đối đầu với cánh quân chủ lực hùng mạnh của Chương Hàm mà chỉ gặp những đạo quân nhỏ.

Lưu Bang giành thiên hạ bằng nhiều thủ đoạn: đoạt binh sĩ của Cương Vũ hầu khi đánh Xương Ấp của nhà Tần, 2 lần đoạt tướng ấn của Hàn Tín, ngay sau hòa ước Hồng Câu đã bội ước mang quân đánh úp Hạng Vũ. Ở Lưu Bang có cả những hàng động tàn bạo là làm cỏ, hủy diệt dân chúng không để ai sống sót đối với thành trì chống đối trong chiến trận, như với dân thành Dĩnh Dương giống như Hạng Vũ từng giết hết dân Tương Thành. Những việc làm đó của Lưu Bang cũng rất tàn bạo không hề kém Hạng Vũ.

Tuy nhiên, các sử gia cũng nói về những biểu hiện của tính cách “vô lại” của Lưu Bang trong việc giành thiên hạ trên khía cạnh khác:
Nếu Lưu Bang tuân thủ hoàn toàn theo chuẩn mực đạo đức của Nho gia, chắc chắn ông không thể giành chiến thắng trước Hạng Vũ
Là người xuất thân thấp kém, Lưu Bang không thể dùng những cách thức thông thường để lọt vào hàng ngũ đứng chung với giới quyền lực. Vì vậy khi đến nhà Lã Công (bố vợ tương lai), ông nói dối là mình có cả vạn đồng tiền dù không có tiền. Nếu Lưu Bang thỏa mãn sau khi bình định Tam Tần, nghĩa là đã trở thành vua Quan Trung như giao ước của Sở Nghĩa Đế, không tiến về phía đông nữa, ông sẽ bị Hạng Vũ và chư hầu khác thôn tính trong cuộc hỗn chiến; trường hợp Hạng Vũ bằng lòng để Lưu Bang có Quan Trung, cục diện Trung Quốc sẽ trở lại thời Chiến Quốc mà ông thay thế nước Tần. Hoặc trường hợp xé bỏ hòa ước Hồng Câu, nếu ông tuân thủ hòa ước rút về phía tây, thiên hạ còn bị chia cắt và nhất là khi nước Sở có thời gian hồi phục, chiến tranh sẽ còn kéo dài thêm nhiều năm nữa.

Trong khi Lưu Bang có thể đã có chủ ý làm giảm uy tín Hạng Vương, ông đã chính xác khi nói về nguyên nhân chiến thắng trước Hạng Vũ:
“ Phàm việc tính toán trong màn trướng mà quyết định được sự thắng ở ngoài ngàn dặm thì ta không bằng Tử Phòng; trị nước nhà, vỗ yên trăm họ, vận tải lương thực không bao giờ đứt thì ta không bằng Tiêu Hà; Nắm trong tay trăm vạn quân đã đánh là thắng, tiến công là nhất định lấy thì ta không bằng Hoài Âm Hầu. Ba người này đều là những kẻ hào kiệt, ta biết dùng họ cho nên lấy được thiên hạ. Hạng Vũ có một Phạm Tăng mà không biết dùng cho nên mới bị ta bắt. ”

Giữ cơ nghiệp lâu dài:   Từ trường hợp vua chư hầu đầu tiên bị trừ là Yên vương Tạng Đồ tới 6 chư hầu sau (Hàn vương Tín, Lương vương Bành Việt, Triệu vương Trương Ngao, Sở vương Hàn Tín, Hoài Nam vương Anh Bố và Yên vương Lư Quán), các sử gia đều nhìn nhận phần lớn họ bị oan hoặc bị thúc ép vào tình thế buộc phải làm phản để triều đình có cớ minh bạch mang quân đi đánh. Những bằng chứng về việc họ tự ý làm phản triều đình được đưa ra đều cho thấy những vụ làm phản không rõ ràng hoặc nguyên nhân không logic.

Sau khi các chư hầu bị trừ hết, chỉ còn lại Trường Sa vương Ngô Thần (con Ngô Nhuế thời Hán Sở nối chức) là vị phiên vương không phải họ Lưu, vì đất Trường Sa xa xôi, ẩm thấp, ít tài nguyên, dân cư thưa thớt chỉ có 2 vạn hộ, và bản thân Trường Sa vương Ngô Thần là người cẩn thận tuyệt đối, lại giúp Lưu Bang diệt Anh Bố.

Các sử gia đi đến kết luận rằng: vợ chồng Lưu Bang, Lã Trĩ đã có chủ ý từ lâu về việc trừ khử các chư hầu. Sự hậu hĩnh phong đất trong thời kỳ đầu chỉ là thuật quyền biến để lợi dụng tài năng của họ. Bản thân thế lực của họ quá mạnh: 7 nước chiếm hơn nửa giang sơn Trung Hoa, lãnh thổ do nhà Hán quản lý chỉ có 15 quận trên gần 40 quận. Việc cắt đất phong vương cho họ vốn chỉ để thực hiện lời hứa với họ để tận dụng họ cùng đánh Hạng Vũ, mục tiêu ban đầu của Lưu Bang. Vì đã có sẵn chủ trương, Lưu Bang và Lã Trĩ dùng trăm phương nghìn kế để “nhổ cỏ tận gốc”. Những hành động đó của vợ chồng Lưu Bang bị chỉ trích là tàn nhẫn, nhưng đó là một sự thật không thể không thừa nhận: tận diệt các chư hầu là biện pháp tốt nhất để yên thiên hạ sau chiến tranh với Sở, đưa thiên hạ thực sự quy một mối, chấm dứt thời kỳ đẫm máu chiến tranh từ thời Tần, giúp nhà Hán ổn định, truyền nối lâu dài, giảm thiểu nguy cơ bạo loạn lật đổ.

Hơn nữa, Lưu Bang tuổi cao sức yếu, ông biết thái tử Lưu Doanh tài năng kém cỏi và nhu nhược không thể giữ được cơ nghiệp trước thế lực lớn mạnh của các chư hầu. Dù hiện tại họ không có ý định làm phản nhưng không có gì đảm bảo khi thái tử Doanh non kém nối nghiệp họ sẽ tiếp tục trung thành. Do đó Lưu Bang và Lã Trĩ chọn giải pháp diệt trừ họ. Việc làm của vợ chồng Lưu Bang là tàn nhẫn, vô đạo đức nhưng được xem là chọn lựa duy nhất trong hoàn cảnh đó, dẫn tới cái chết oan của nhiều phiên vương và gia quyến họ, là vật hy sinh cho cuộc đấu tranh chính trị đương thời.

Lưu Bang được nhìn nhận là một nhà chính trị kiệt xuất. Ông biết cách thu hút, tận dụng tài năng và điều khiển quần hùng. Tuy nhiên xét trên mặt ảnh hưởng lịch sử thì Lưu Bang không phải là hình mẫu nên học vì ông không giữ lễ nghĩa và không giữ chữ tín với cả địch thủ lẫn những người cộng sự. Có ý kiến cho rằng thành công trên con đường xây dựng và giữ sự nghiệp của Lưu Bang là tấm gương xấu cho giai cấp thống trị Trung Quốc noi theo và trở thành truyền thống cho nhiều triều đại sau đó.

Tuy nhiên, có ý kiến khác cho rằng: Sau Lưu Bang, nhiều vị vua khai quốc khác cũng sát hại công thần; những trường hợp như Hán Quang Vũ Đế, Tống Thái Tổ không sát hại công thần rất hiếm có; hành động sát hại công thần không nên chỉ xem xét quy tội cho phẩm chất cá nhân một vị hoàng đế mà cần phải xem đó là sản phẩm của chế độ chuyên chế tập quyền.
Gia quyến
Cha: Lưu Thái công (劉執嘉)
Mẹ: Lưu Ẩu.
Vợ: Lữ Hậu, mẹ Huệ Đế và Công chúa Lỗ Nguyên
Các thiếp khác:
Tào Phu nhân, mẹ Tề Vương Phì - ban đầu là tình nhân của Hán Cao Tổ
Triệu Phu nhân, mẹ Hoài Nam vương Trường
Đặng Phu nhân
Ngụy Phu nhân
Thích Phu nhân, mẹ Triệu vương Như Ý
Bạc Phu nhân, mẹ Hán Văn Đế, ban đầu là vợ Ngụy vương Báo.
Con:
Tề Vương Lưu Phì (phong năm 202 TCN, mất 195 TCN)
Thái tử Lưu Doanh (劉盈), tức là Hán Huệ Đế - vua kế tục Cao Đế
Triệu Vương Như Ý (劉如意) (được lập làm Triệu Vương năm 198 TCN, bị Lã Hậu giết năm 195 TCN)
Đại Vương Lưu Hằng (劉恆 - được phong năm 196 TCN, sau này là Hán Văn Đế
Lương Vương Lưu Khôi (phong năm 196 TCN - được lập làm Triệu Vương năm 180 TCN, tự sát năm 180 TCN)
Triệu Vương Lưu Hữu, ban đầu là Hoài Dương Vương (phong năm 196 TCN, được lập làm Triệu Vương năm 194 TCN, bị Lã Hậu bỏ chết đói năm 180 TCN.
Hoài Nam Vương Lưu Trường (sinh năm 198 TCN, phong năm 196 TCN, bị truất phế và lưu đày năm 174 TCN, có lẽ đã tự sát)
Yên Vương Lưu Kiến (phong năm 195 TCN, chết 181 TCN)
Công chúa Lỗ Nguyên (魯元公主)

HÀN TÍN

Hàn Tín (chữ Hán giản thể: 韩信, chính thể: 韓信, latin hóa: Hán Xìn) (229 – 196 TCN), còn gọi là Hoài Âm hầu (淮陰候), là một danh tướng bách chiến bách thắng, thiên hạ vô địch, được vua Hán Cao Tổ ca ngợi là "Nắm trong tay trăm vạn quân đã đánh là thắng, tiến công là nhất định lấy thì ta không bằng Hoài Âm Hầu".thời Hán Sở tranh hùng, là 1 trong "tam kiệt nhà Hán" có công rất lớn giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài 400 năm.
Theo sách Tây Hán chí thì Hàn Tín, người ở Hoài Âm, (nước Sở). Cha mẹ mất sớm phải sống côi cút từ bé, nhà nghèo phải làm nghề câu cá Khi mẹ mất, vì muốn xây cất cho mẹ ngôi mộ ở nơi đẹp đẽ trên núi cao mà bán cả nhà cửa, xách kiếm đi lang thang ngoài chợ. Thấy Hàn Tín gầy gò yếu đuối nhưng lại vác kiếm trông như võ tướng. Có gã bán thịt lợn làm nhục bắt Tín một là dùng kiếm đánh nhau với gã, hai là luồn qua háng (trôn) y. Mọi người thấy Tín bị nhục đều chê cười. Có hôm không câu được Cá, Tín không có gì ăn, thường đi xin cơm của bà lão giặt lụa và hứa hẹn sau này làm nên sự nghiệp sẽ trả ơn ngàn vàng. Bà lão giặt lụa trách: "cậu là thanh niên trai tráng mà không lo nổi miếng ăn thì làm sao làm nên sự nghiệp, tôi giúp cậu chỉ vì thấy tội chứ có mong cậu báo đáp làm chi".
Mọi người thấy thế đều cho ông là người thấp kém, hèn hạ.
Bỏ Sở theo Hán
Năm 209 TCN, Trần Thắng khởi nghĩa chống nhà Tần, Hàn Tín đã ra bờ sông Vị Thủy cầm kiếm xin tham gia nghĩa quân. Ông đã được Hạng Lương là thế tộc nước Sở cho gia nhập nghĩa quân. Tuy nhiên, Hạng Lương và cháu là Hạng Vũ xem thường Hàn Tín thân phận thấp hèn, chỉ cho làm quân cầm kích đứng hầu. Nhiều lần ông bày mưu cho Hạng Vũ, nhưng Hạng Vũ không dùng.
Nhà Tần sụp đổ, Hạng Vũ đứng đầu chư hầu, phân phong cho các tướng và vua chư hầu. Lưu Bang bị Hạng Vũ tranh công vào Quan Trung, đẩy vào đất Thục xa xôi hiểm trở, phong làm Hán Vương.
Khi Hán Vương lên đường vào đất Thục, Hàn Tín bất mãn vì vẫn không được trọng dụng, bèn bỏ Sở theo về Hán dưới sự tiến cử của Trương Lương. Nhưng ông cũng không được Hán vương coi trọng, bản thân không có tiếng tăm gì, chỉ được làm chức liên ngao, tức là quan coi kho.
Nhờ tiến cử của Tiêu Hà
Hàn Tín phạm tội bị xử chém, cả bọn mười ba người đều đã chém hết; đến lượt mình, ông ngẩng đầu lên nhìn, chợt thấy Hạ Hầu Anh là thân cận của Lưu Bang, liền nói:
Nhà vua không muốn lấy thiên hạ hay sao? Tại sao chém tráng sĩ?
Hạ Hầu Anh thấy lời nói kỳ lạ, dung mạo hiên ngang nên tha mà không chém. Hạ Hầu Anh bèn cùng nói chuyện, rất hài lòng, sau đó tâu với Lưu Bang. Lưu Bang cho ông làm độ úy, coi về thóc.
Hàn Tín thường nói chuyện với tướng quốc của Lưu Bang là Tiêu Hà. Tiêu Hà rất phục tài ông và hứa tiến cử với Hán Vương.
Đường từ Hàm Dương vào Thục xa xôi, hiểm trở, Lưu Bang cùng các tướng di chuyển trong thời gian khá lâu. Khi Hán Vương đến đất Nam Trịnh, trên đường đi, các tướng thấy cõi Thục độc địa bỏ trốn đến mấy chục người. Hàn Tín xem chừng Tiêu Hà và Hạ Hầu Anh đã mấy lần tâu với Lưu Bang nhưng Lưu Bang không dùng mình, nên cũng bỏ trốn. Tiêu Hà nghe tin Hàn Tín bỏ trốn liền thân hành theo tìm, không kịp báo cho Hán vương biết.
Lưu Bang coi Tiêu Hà như cánh tay phải, lúc đó đứng ngồi không yên. Mãi hai hôm sau Tiêu Hà mới về, giãi bày hết với Hán vương và ra sức tiến cử Hàn Tín:
Các tướng đều dễ kiếm thôi, còn như Tín là kẻ quốc sĩ, có một không hai. Nhà vua nếu cứ muốn làm vương mãi ở Hán Trung, thì chẳng cần Tín làm gì chứ nếu muốn tranh lấy thiên hạ thì ngoài Tín ra chẳng có thể bàn công việc với ai.
Lưu Bang dù chưa thật tin nhưng vì nhưng vì sự khẩn khoản của Tiêu Hà mà phong cho Hàn Tín làm đại tướng. Khi Hán vương làm trai giới, lập đàn để phong ông, cả ba quân đều kinh ngạc, không nghĩ rằng người như ông lại được lên làm đại tướng.
Hàn Tín lên đàn nhận phong xong, bèn phân tích cho Hán vương về những thế mạnh, yếu của Hạng Vũ và phương sách đánh bại Sở. Hán vương bắt đầu nhận ra tài năng của ông. Về sau mới biết Tín là người được Trương Lương tiến cử nên Lưu Bang lại càng xem trọng.
Minh tu sạn đạo, ám độ Trần Thương
Để che mắt các nước Tam Tần, ngay khi vào Thục, Lưu Bang cho đốt đường sạn đạo (con đường nối vùng đất phong của mình với Tần) khiến các nước này không chú ý tới mình.
Tháng tám năm 206 TCN, Hàn Tín được phong làm đại tướng, bắt đầu ra quân bình định Tam Tần, do các vua chư hầu Chương Hàm (Ung vương), Tư Mã Hân (Tắc vương) và Đổng Ế (Địch vương) án ngữ làm phên giậu cho Sơn Đông để cản đường Lưu Bang. Ông giả cách sai người đi sửa đường sạn đạo, vốn mất rất nhiều công sức thời gian, khiến Tam Tần yên trí rằng quân Hán còn lâu mới ra được cửa ải. Nhưng thực ra Hàn Tín dẫn đại quân đi theo đường Trần Thương đi qua huyện Cố Đạo đánh úp Ung Vương Chương Hàm. Chương Hàm đón đánh quân Hán ở Trần Thương. Ung vương bị thua chạy về, dừng lại đánh đất Hạo Trĩ, lại thua trận, bỏ chạy đến Phế Khâu. Hán vương đuổi theo, bình định đất đai của Ung vương, đi về đông đến Hàm Dương, lại cho một cánh quân riêng vây Ung vương ở Phế Khâu, còn sai các tướng bình định Lũng Tây, Bắc Địa, Thượng Quận.
Năm 205 TCN, Hàn Tín lại điều quân đánh Tắc Vương Hân, Địch vương Ế. Bị đánh bất ngờ, Tư Mã Hân và Đổng Ế đầu hàng. Hàn Tín kéo về đông, Hà Nam vương Thân Dương cũng đầu hàng theo.
Sau khi giết Hàn vương Thành, Hạng Vũ cho người thân tín của mình là Trịnh Xương làm Hàn Vương. Hàn vương không chịu đầu hàng Hán. Hàn Tín mang đại quân đánh bại Xương.
Chặn đứng quân Sở
Hàn bị đánh bại, Lưu Bang lập người tông thất nước Hàn, đang làm thái uý, cũng tên là Hàn Tín làm Hàn vương, gọi là Hàn vương Tín. Tây Nguỵ vương Báo bèn hàng Hán, cùng hợp binh với Hán đánh Ân. Ân vương Tư Mã Ngang bị bắt sống.
Hàn Tín ở lại giữ Quan Trung, Hán vương cùng các tướng tiếp tục đông tiến, dụ thêm nước Triệu hội quân đánh Sở. Lúc đó Tây Sở Bá vương Hạng Vũ đang sa lầy chiến tranh ở nước Tề, chưa diệt được Điền Quảng và Điền Hoành, Hán vương gom quân chư hầu 56 vạn rầm rộ tiến vào chiếm cứ kinh đô Sở là Bành Thành. Hạng vương mang 3 vạn tinh binh trở về đánh tan tành quân Hán ở Bành Thành. Quân Hán tan tác trở về.
Một loạt chư hầu thấy Sở thắng Hán lại theo Sở như Tư Mã Hân, Đổng Ế, Triệu Yết. Cả Điền Hoành nước Tề cũng giảng hoà với Sở. Thế quân Sở mạnh lên, Hạng Vũ mang quân tây tiến đánh Hán.
Hàn Tín thu binh, họp với Hán Vương ở Huỳnh Dương. Hạng Vũ tiến quân truy đuổi Lưu Bang, Hàn Tín chỉ huy quân Hán, đánh phá quân Sở ở miền giữa đất Kinh và đất Sách. Quân Sở vì vậy vẫn không thể truy bức được Hán vương.
Diệt Nguỵ: dương đông kích tây
Tháng sáu năm 205 TCN, Ngụy Vương Báo lấy cớ xin nghỉ để về thăm cha bị bệnh. Về đến nước, Ngụy Vương liền cắt đường giao thông ở Hà Quan, phản lại Hán, giao hiếu với Sở.
Hán vương sai Lịch Tự Cơ thuyết phục Báo, nhưng Báo không nghe.
Tháng tám năm 205 TCN, Lưu Bang phong Hàn Tín làm tả thừa tướng để đánh Ngụy. Ngụy Báo đem nhiều binh đến Bồ Bản chặn cửa sông Lâm Tấn. Hàn Tín dàn thêm nghi binh, bày thuyền bè như muốn vượt qua sông Lâm Tấn; nhưng trái lại dùng phục binh đi đường đất Hạ Dương, lấy thùng gỗ để cho quân vượt qua sông, đánh úp đất An Ấp
Ngụy Vương Báo cả kinh, đem binh quan về đánh trả nhưng đã muộn. Hàn Tín đánh chiếm đất Nguỵ, bắt Báo cầm tù, bình định đất Ngụy, làm thành quận Hà Đông.
Hán Vương sai Trương Nhĩ cùng với Hàn Tín đem binh sang đông đi về hướng Bắc, đánh nước Triệu và nước Đại.
Lấy Triệu: bày trận tựa sông
 Trần Dư
Tháng chín nhuận năm 205 TCN, Hàn Tín phá quân Đại, bắt được thừa tướng Hạ Duyệt, người được Đại vương Trần Dư uỷ quyền cai quản nước Đại ở đất Ứ Dự. Lúc đó chiến sự giữa Hán và Sở đang rất gay go, Hán Vương bị Sở Bá vương tấn công mạnh mẽ. Hán Vương nghe tin ông diệt liền hai nước, liền sai người thu tinh binh của ông đem đến Huỳnh Dương để chống Sở.
Hàn Tín và Trương Nhĩ mộ quân mới, được quân mấy vạn người, đi về phía Đông xuống Tỉnh Hình để đánh Triệu. Vua Triệu và Trần Dư nghe tin quân Hán sắp đánh úp, bèn tụ tập quân đội ở Tỉnh Hình, phao là hai mươi vạn. Tướng Triệu là Lý Tả Xa bày mưu cho Trần Dư nên cố thủ và chẹn đường vận lương của quân Hán nhưng Trần Dư không nghe theo.
Hàn Tín sai người sang thám thính, biết mưu của Lý Tả Xa không được dùng, bèn đem quân thẳng xuống. Chưa đến cửa Tỉnh Hình, cách ba mươi dặm, dừng lại cắm trại. Nửa đêm truyền lệnh xuất phát. Chọn hai nghìn quân kỵ trang bị nhẹ, mỗi người cầm một lá cờ đỏ đi theo đường tắt lén lút sang nói theo dõi quân Triệu.
Ông ra lệnh:Triệu thấy ta chạy, thế nào cũng bỏ trống thành mà đuổi ra. Các ngươi tiến vào ngay trong thành, nhổ cờ của Triệu dựng cờ đỏ của Hán.
Sau đó ông sai các tỳ tướng truyền bảo ăn cơm lót lòng thôi, và nói:
“Hôm nay phá quân Triệu xong sẽ họp nhau ăn tiệc.”
Các tướng nghe lệnh những vẫn nghi hoặc không ai tin.
Sau đó Hàn Tín nói với tướng sĩ:
Quân Triệu đã giữ địa thế tiện lợi trước để xây đồn lũy, chúng lại chưa thấy cờ trống, đại tướng của ta nên chưa chịu tiến lên đánh đội tiên phong vì chúng sợ ta đến nơi đường hẹp, hiểm trở thì quay lại.
Rồi ông sai một vạn người đi trước bày trận quay lưng ra sông. Đó là phép tối kỵ trong binh pháp vì theo binh pháp, phải dựa vào núi và nhìn ra sông, nếu tựa vào sông sẽ bị kẻ địch đánh dồn tới hết đường chạy, đó là chỗ chết. Vì thế quân Triệu ở xa nhìn thấy, cười vang.
Lúc bình minh, Tín dựng cờ đại tướng, đánh trống lên, kéo quân ra cửa Tỉnh Hình. Quân Triệu mở cửa lũy, đánh nhau to một hồi lâu. Bấy giờ Hàn Tín, Trương Nhĩ vờ bỏ cờ trống chạy đến đạo quân gần sông. Đạo quân gần sông rẽ ra, đón lấy họ, rồi lại chiến đấu dữ dội. Quân Triệu quả nhiên bỏ thành ra tranh lấy cờ trống của Hán, đuổi theo Hàn Tín, Trương Nhĩ. Sau khi Hàn Tín, Trương Nhĩ đã nhập vào đạo quân ở gần sông thì quân đội đều liều chết chiến đấu không thể nào đánh bại được. Hai nghìn quân kỵ mà Tín đã cho đi từ trước chờ đến khi quân Triệu bỏ lũy trống để đuổi theo để lấy cờ trống của Hán, liền ruổi nhanh vào trong thành, nhổ tất cả cờ xí của Triệu để dựng hai nghìn lá cờ đỏ của Hán.
Quân Triệu đã không thắng, không bắt được Hàn Tín và các tướng Hán, muốn quay trở về đồn, nhưng trong thành toàn là cờ đỏ của Hán thì cả sợ, cho rằng quân Hán đã bắt được tướng của Triệu Vương rồi. Quân sĩ hỗn loạn bỏ chạy. Tướng Triệu chém cũng không ngăn được. Quân Hán hai bên áp lại, phá tan quân Triệu, chém Trần Dư trên sông Chi Thủy, bắt sống Triệu Vương Yết.
Bàn binh pháp, thuận tay thu Yên
Hàn Tín ra lệnh cho quân đội không được giết Lý Tả Xa, ai bắt sống được ông ta thì thưởng ngàn vàng. Có người trói Tả Xa nộp dưới cờ, Tín bèn cởi trói cho ông ta và cho ngồi quay mặt về hướng Đông, còn mình ngồi quay mặt về hướng Tây, thờ làm thầy.
Các tướng đem thủ cấp và tù binh đến nộp đâu đấy và chúc mừng. Các tướng nhân dịp hỏi ông:
Binh pháp nói “Bên phải sau lưng thì núi gò, trước mặt bên trái thì sông đầm” nay tướng quân lại sai bọn chúng tôi quay lưng ra sông mà bày trận, nói rằng phá xong quân Triệu sẽ ăn cơm. Bọn chúng tôi không phục nhưng kết quả lại thắng, không biết đó là thuật gì?
Ông đáp:
Điều đó ở trong binh pháp, chỉ có điều các anh không xét đến mà thôi. Chẳng phải binh pháp có nói: “Hãm vào đất chết thì sau nó mới sống, dắt vào chỗ mất thì sau nó mới còn” đó sao? Vả chăng Tín không phải có những tướng sĩ đã từng được huấn luyện. Đây cũng như người ta nói là kéo những người ngoài chợ bắt họ đi đánh. Tình thế này nếu không đặt họ vào nơi đất chết khiến cho người nào cũng vì mình mà chiến đấu thì không được. Nếu như ta để cho họ vào nơi đất sống thì họ đều bỏ chạy, ta còn làm sao dùng họ được nữa.
Theo kế của Lý Tả Xa, Hàn Tín cho quân nghỉ ngơi, bình định nước Triệu, rồi sai người mang một bức thư sang nước Yên dụ Yên vương Tang Đồ. Tang Đồ sợ thế quân Hán bèn xin theo.
Tín lại sai sứ báo với Hán, nhân tiện xin lập Trương Nhĩ làm Triệu Vương để cai trị và vỗ về nước này. Vua Hán ưng thuận, bèn lập Trương Nhĩ làm Triệu Vương.
Phụ Lịch Sinh không phụ Hán
Bị cướp tướng ấn
Hạng Vũ mấy lần sai kỳ binh vượt qua sông Hoàng Hà đánh Triệu. Triệu Vương Nhĩ và Hàn Tín đi đi lại lại để cứu Triệu, nhân lúc đi lại bình định các thành ấp ở Triệu, đem binh đến giúp Hán Vương.
Hạng vương đang bận vào việc vây Hán Vương ở Huỳnh Dương, nên không thể dồn đại quân đánh Triệu. Hán Vương bị quân Sở vậy ngặt, phải trốn ra về phía Nam, đến giữa miền Uyển và Diệp, chạy vào Thành Cao. Hạng Vũ lại bao vây rất gấp.
Tháng sáu năm 204 TCN, Hán Vương ra khỏi Thành Cao, chạy về hướng đông, vượt qua sông Hoàng Hà, chỉ có một mình Hạ Hầu Anh cùng đi. Hán Vương theo quân của Trương Nhĩ đến Tu Vũ. Đến nơi, Hán Vương nghỉ ở ngoài quán trọ. Sáng sớm, Hán Vương tự xưng là sứ thần nhà Hán, phi ngựa vào trong thành Triệu. Trương Nhĩ, Hàn Tín chưa dậy, Hán Vương vào trong phòng ngủ, cướp ấn tín và binh phù, dùng cờ mao để triệu tập cái tướng, thay đổi chức vị các tướng.
Khi ông và Trương Nhĩ thức dậy, mới biết là Hán Vương đã đến. Hán Vương sau khi đoạt quân của hai người liền ra lệnh cho Trương Nhĩ giữ lấy đất Triệu, phong Hàn Tín làm tướng quốc, thu quân đội của Triệu chưa phái đến Huỳnh Dương để đánh Tề.
Đánh úp Lâm Tri, ngăn nước giết Long Thư
Tín đem quân sang Đông, chưa vượt qua bến sông Bình Nguyên thì nghe tin sứ thần của Hán Vương là Lịch Tự Cơ đã thuyết phục được nước Tề đầu hàng. Hàn Tín muốn dừng lại. Người biện sĩ đất Phạm Dương là Khoái Triệt bàn với Hàn Tín:
Tướng quân nhận chiếu đánh nước Tề, nay Hán Vương chỉ sai một người ly gián mà khiến nước Tề đầu hàng, nhưng đã có chiếu chỉ bảo tướng quân dừng lại đâu? Tại sao tướng quân lại không đi ? Vả chăng Lịch Sinh là một kẻ sĩ kính cẩn múa ba tấc lưỡi mà hạ được hơn bảy mươi thành của nước Tề, tướng quân cầm mấy vạn quân hơn một năm mới hạ được hơn năm mươi thành của Triệu. Làm tướng quân mấy năm mà công không bằng một anh nhà nho hay sao?
Hàn Tín cho là phải, theo kế của Khoái Triệt, mang quân vượt qua sông Hà. Nước Tề đã nghe lời Lịch Sinh nên giữ Lịch Sinh ở lại uống rượu, triệt bỏ các quân đội để phòng ngự quân Hán. Hàn Tín nhân đó đánh úp quân Tề ở Lịch Hạ, đi đến Lâm Tri. Vua Tề là Điền Quảng cho rằng Lịch Sinh lừa mình nên nấu Lịch Sinh và trốn đến đất Cao Mật, sai sứ đến nước Sở để cầu cứu. Sau khi đã bình định Lâm Tri, Hàn Tín đi về hướng Đông, đuổi Quảng đến phía Tây đất Cao Mật.
Hạng Vương nghe cầu cứu của Tề, bèn sai Long Thư làm tướng, phao là hai mươi vạn quân, đem quân đến cứu Tề. Vua Tề là Quảng cùng Long Thư dồn quân để đánh nhau với Hàn Tín.
Long Thư bày trận hai bên sông Tuy Thủy. Hàn Tín đang đêm sai người làm hơn một vạn cái đẫy đổ đầy cát chặn lấy thượng lưu dòng sông rồi đem quân qua nửa chừng đánh Long Thư, giả vờ thua, quay lưng bỏ chạy về. Long Thư quả nhiên mừng rỡ nói:
Ta biết Hàn Tín nhát gan mà!
Bèn dẫn quân đuổi theo, qua sông. Lúc đó Hàn Tín cho người phá các bao đựng cát, nước sông chảy ào ào, đại quân của Long Thư quá nửa không qua được. Hàn Tín mới thúc quân đánh gấp, giết được Long Thư. Bộ phận quân của Long Thư phía đông dòng sông bỏ chạy tán loạn.
Vua Tề là Quảng chạy trốn. Hàn Tín liền đuổi theo đến đất Thành Dương, bắt bỏ tù tất cả lính Sở.
Tề vương do dự
Năm 203 TCN, Hàn Tín bình định nước Tề, sai người nói với Lưu Bang:
“Nước Tề là nước gian dối, hay gây biến, tráo trở. Biên giới phía nam là nước Sở, nếu không lập giả vương để giữ thì không thể bình định được. Xin cho tôi làm giả vương.”
Lúc bấy giờ quân Sở đang vây Hán Vương rất gấp ở thành Huỳnh Dương. Sứ giả của Hàn Tín đến, Hán Vương mở phong thư ra, cả giận mắng:
Tao đang nguy khốn ở đây, sớm chiều trông mày đến giúp thế mà mày lại muốn tự lập làm vương à?
Các mưu sĩ Trương Lương, Trần Bình giẫm vào chân Hán Vương, nhân đấy ghé vào tai Hán Vương nói:
Nhà Hán hiện nay bất lợi, có thể cấm không cho Tín làm vương được không? Chi bằng nhân đấy mà lập, đối xử với ông ta cho tử tế, khiến ông ta vì mình mà giữ. Nếu không sẽ sinh biến.
Hán vương nghe theo, liền sai Trương Lương đi lập Hàn Tín làm Tề Vương, trưng dụng binh của ông đến đánh Sở.
Nghe tin Long Thư chết, Hạng Vương lo lắng sai Vũ Thiệp, người Vu Thai đến nói với Tề Vương Tín hãy phản Hán để chia ba thiên hạ nhưng ông từ tạ rằng:
“Tôi thờ Hạng Vương, quan chẳng qua là lang trung, địa vị chẳng qua là cầm kích đứng hầu ở điện, lời nói ra không được nghe, mưu kế đưa ra không được dùng, cho nên tôi bỏ Sở mà theo Hán. Hán Vương trao cho tôi ấn thượng tướng quân, giao cho tôi mấy vạn binh, cởi áo của mình để cho tôi được dùng. Cho nên tôi mới được như thế này. Phàm người ta hết sức tin cậy mình thành thực như thế mà mình phản lại là điều chẳng lành. Tôi dù chết cũng không thay lòng đổi dạ. Nhờ ông thưa lại với Hạng Vương rằng Tín từ chối.”
Sau khi Vũ Thiệp đi rồi, người nước Tề là Khoái Triệt biết rằng thiên hạ ai thắng ai bại là ở Hàn Tín, cũng ra sức thuyết phục ông cắt đất Tề, Yên, Triệu để chia ba thiên hạ, tạo thế chân vạc. Nhưng ông nói với Khoái Triệt rằng:
Vua Hán đối đãi tôi rất hậu, lấy xe của mình để cho tôi đi, lấy áo của mình để cho tôi mặc, lấy cơm của mình để cho tôi ăn. Tôi nghe nói “đi xe người ta thì lo điều lo của người ta, mặc áo của người ta thì mang điều lo nghĩ của người ta, ăn cơm người ta thì chết cho công việc của người ta”. Tôi lẽ nào lại chạy theo lợi mà quên nghĩa?
Khoái Triệt cố phân tích mọi lẽ để thuyết phục ông thêm mấy lần nữa cũng không nổi vì Hàn Tín do dự không nỡ phản lại nhà Hán. Ông lại tự cho rằng mình lập được nhiều chiến công, vua Hán dẫu sao cũng không lấy mất nước Tề của mình, nên ông bèn từ tạ Khoái Triệt. Khoái Triệt nói không được, bèn giả điên, làm người thầy cúng.
Sau hoà ước Hồng Câu, năm 202 TCN, Hán vương theo kế của Trương Lương, bội ước mang quân đánh úp Hạng Vương, nhưng vẫn bị Hạng vương quay lại đánh cho đại bại ở Cố Lăng. Lưu Bang lo sợ, bèn theo kế của Trương Lương, triệu ông cùng Bành Việt mang quân về giúp, hứa sẽ phong cho nhiều đất.
Hàn Tín cùng Bành Việt nghe theo, đem binh họp nhau với Hán vương ở Cai Hạ, đánh bại Hạng Vũ, diệt Tây Sở.
“Thịt thỏ hết chó săn bị mổ”
Oán cho bạn, ân cho thù
Sau khi Hạng Vũ đã bị phá, Lưu Bang lập tức đoạt lấy quân của Tề Vương Tín lần thứ hai (sau lần ở thành Tu Vũ).
Hàn Tín vừa lập được công xong lập tức bị tước binh quyền. Tới tháng giêng năm 202 TCN, Lưu Bang dời Tề Vương Tín làm Sở Vương, đóng đô ở Hạ Bì. Lưu Bang lên ngôi hoàng đế, tức là Hán Cao Đế.
Hàn Tín về nước, cho gọi bà giặt vải đã cho mình ăn để thưởng ngàn vàng. Rồi ông lại gọi người thanh niên đã bắt mình luồn qua háng cho làm trung úy nước Sở. Mọi người ngạc nhiên, ông nói với các tướng văn võ:
Hắn là tráng sĩ đấy, lúc hắn làm nhục ta, ta có phải không giết được hắn đâu? Nhưng giết hắn thì không có danh nghĩa gì.
Viên tướng bỏ trốn của Hạng Vương là Chung Ly Muội nhà ở núi Y Lư, vốn chơi thân với Tín. Sau khi Hạng Vương chết, Muội bỏ trốn về với ông. Hán Cao Đế truy lùng Muội, nghe nói Muội ở Sở, ra chiếu cho Sở Vương bắt Muội.
Năm 201 TCN, có người đưa thư lên báo Sở Vương Tín làm phản. Cao Đế dùng mưu kế của Trần Bình, giả cách thiên tử đi tuần thú hội họp chư hầu. Ở phương Nam có đất Vân Mộng, Hán Đế bèn sai sứ báo cho chư hầu sẽ họp ở đất Trần: Ta sẽ đi chơi Vân Mộng, kỳ thực vua Hán muốn bắt Hàn Tín, nhưng ông không biết.
Cao Tổ sắp đến Sở, Hàn Tín lo lắng vì chứa Chung Ly Muội trong nhà. Có người khuyên ông chém Muội để ra mắt nhà vua thì sẽ khỏi tội.
Ông bèn đến gặp Muội nói về việc ấy, Muội nói:
Nhà Hán sở dĩ không dám đánh lấy Sở là vì Muội ở nhà ông. Nay ông muốn bắt ta để nịnh nhà Hán, thì ta hôm nay chết nhưng ông cũng chết theo như trở tay mà thôi.
Rồi Muội mắng Hàn Tín:
Nhà ngươi không phải bậc trưởng giả!
Sau đó đâm cổ chết. Hàn Tín ôm đầu Muội ra mắt Lưu Bang ở đất Trần. Lưu Bang sai võ sĩ trói ông lại chở ở xe sau. Ông nói:“Đúng như người ta nói: “Thỏ khôn hết thì chó giỏi bị nấu, chim cao hết thì cung tốt bị cất, nước địch bị phá thì mưu thần hết đời”. Thiên hạ đã bình định rồi, ta bị nấu là đáng lắm.”
Lưu Bang đáp:
Người ta bảo nhà ngươi làm phản.
Rồi sai áp giải ông về kinh. Đến Lạc Dương thì tha tội cho ông, giáng phong làm Hoài Âm Hầu.
Ý kiến của các nhà nghiên cứu thống nhất rằng, Lưu Bang nghe theo các cận thần, hoặc tự đặt ra chuyện có người tố cáo Hàn Tín mưu phản để lấy cớ bắt ông mang về kinh quản thúc và giáng chức, kỳ thực Hàn Tín không có tội. Vì vậy khi đưa Hàn Tín từ nước Sở về kinh, lập tức Lưu Bang hạ lệnh tha ông do ông không còn binh quyền trong tay để đe doạ ngai vàng của Lưu Bang
Thật thà gây hoạ
Lúc thung dung nói chuyện với Hàn Tín về tài năng của các tướng, xem tài năng họ như thế nào, Lưu Bang hỏi ông:
Như ta thì có thể cầm được bao nhiêu quân?
Hàn Tín nói:
Bệ hạ chẳng qua chỉ cầm được mười vạn.
Lưu Bang lại hỏi:
Thế còn nhà ngươi thì cầm được bao nhiêu?
Hán Tín trả lời:
Thần thì càng nhiều càng tốt.
Lưu Bang cười nói:
Càng nhiều càng tốt thì sao lại bị ta bắt?
Hán Tín đáp:
Bệ hạ không có tài cầm quân, nhưng có tài cầm tướng, vì vậy cho nên Tín mới bị bệ hạ bắt.
Sau lần đó, Lưu Bang càng sợ tài của Tín và quyết trừ khử cho được.
Chết bởi ân nhân
Sử ký Tư Mã Thiên ghi đại ý: Năm 196 TCN, Trần Hy làm phản. Lưu Bang thân hành làm tướng, đem quân đi đánh. Hàn Tín mưu tập hợp người nhà làm phản ở kinh đô để làm nội ứng cho Trần Hy. Nhưng vì có người môn hạ có tội với Hàn Tín bị ông bỏ tù, muốn giết đi nên em của người này ra đầu thú báo tin với triều đình, tố cáo ông muốn làm phản.
Lã Hậu muốn gọi Hàn Tín vào, nhưng sợ ông không đến, nên bàn với tướng quốc Tiêu Hà, giả vờ sai người từ ngoài chiến trường chỗ Lưu Bang trở về báo tin rằng: Trần Hy đã chết, các chư hầu, các quan đều đến mừng. Tiêu Hà lừa Hàn Tín rằng:
Tuy ngài ốm, cũng xin cố gắng vào mừng.
Hàn Tín theo Tiêu Hà vào cung, Lã Hậu lập tức sai võ sĩ trói ông, rồi mang chém ở nhà treo chuông trong cung Trường Lạc. Lúc sắp bị chém, Hàn Tín nói:“Ta hối hận không dùng mưu kế của Khoái Triệt, cho nên mới bị bọn đàn bà con nít lừa dối. Há chẳng phái là vì trời muốn thế hay sao?”
Lã Hậu bèn giết cả ba họ nhà Hàn Tín. Sau khi Lưu Bang đã dẹp xong quân của Trần Hy trở về kinh đô, thấy ông đã chết nhà vua vừa mừng vừa thương.
Tiêu Hà trước kia là ân nhân của Hàn Tín, ra sức tiến cử ông với Lưu Bang, nhưng cuối cùng lại chính Tiêu Hà lừa ông vào cung cho Lã Hậu giết. Bởi vậy đời sau nói rằng Hàn Tín làm nên sự nghiệp nhờ bởi Tiêu Hà mà chết cũng do tay Tiêu Hà.
Nghi án lịch sử
Theo các nhà nghiên cứu, triều đình kết tội ông đồng mưu với phản thần Trần Hy làm nội gián, nhưng thực ra đây chỉ là sự vu cáo. Hàn Tín không có tội mà đây là do Lưu Bang, Lã Hậu bày đặt vu hãm Hàn Tín do tài năng, công lao của ông quá lớn. Hàn Tín là người thực sự trung thành, đến mức ngu trung, với Lưu Bang, bởi Lưu Bang đã trọng dụng ông khi ông còn hàn vi, thất thế bên chính quyền Hạng Vũ. Cho nên, lúc Tín diệt Tề, thiên hạ 7 nước thì 6 đã theo Hán, nước Sở thế cô, Hạng Vũ sai thuyết khách đến dụ ông phản Hán nhưng ông không nghe. Mưu sĩ của ông là Khoái Triệt nhân đó cũng khuyên ông phản Hán để chia ba thiên hạ, nhưng Hàn Tín không nỡ.
Khi nắm hàng chục vạn binh hùng tướng mạnh trong tay như thế, Hàn Tín đã không hề có ý làm phản. Kể cả khi làm Sở vương, ông cũng giết bạn cũ Chung Ly Muội để chứng tỏ lòng trung thành, chứng tỏ ông không hề có ý phản Lưu Bang. Vì vậy, việc đặt điều nói rằng ông định tập hợp vài trăm nô tỳ mà làm phản thì quả là sự vu cáo vụng về, vì ông là nhà cầm quân lão luyện, không thể ngu muội làm một việc ngớ ngẩn để rước cái chết vào mình như vậy. Mà khi ông đã có ý làm phản thì sẽ không dám theo Tiêu Hà vào cung để cho Lã hậu bắt chém.
Sách Sử ký Chí nghi của Lương Ngọc Thắng nói:“Tín chết oan vậy! Những người hiền ngày trước đều thấy ông không có tội trạng gì tỏ ra làm phản chỉ có mấy lời tố giác vu vơ đấy thôi... Qua Sử ký, dựa vào giấy tờ làm án mà viết ra cũng thấy rõ là sai. Bữa cơm ngàn vàng, cởi áo nhường cơm, lẽ nào phụ bạc Cao Đế. Không nghe Thiệp, Thông, không giữ quân làm vua đất Tề thì thế nào cũng không làm liều khi nhà ở Hoài Âm. Không nghĩ đến việc liên kết các vua lớn như Kinh Bố, Bành Việt thì ắt không giao ước dễ dàng với viên tướng ở ngoài biên giới xa xôi... Ai nghe lời nói “khi nắm tay đuổi người xung quanh ra”, việc mưu phản chưa chắc lại sơ xuất như vậy? Số người và năng lực bọn tôi tớ bao lăm, Tín tất không dùng họ một cách liều lĩnh. Mới hay Cao Tổ sợ Tín không phải một sớm một chiều, Trương Lương giẫm vào gót chân, ghé tai mà nói ở Vu Thai, Cao Tổ cướp binh phù, đoạt quân đội, bắt trói cũng chưa cho là vừa, giết cả họ mới mừng. Xét câu: “Dẹp xong quân Trần Hy trở về vừa mừng vừa thương”, đủ rõ Tín không có tội mà chết.
Các sử gia đều nói Hàn Tín bị oan. Cái chết của ông cũng như cái chết của nhiều công thần khai quốc nhà Hán khác như Bành Việt, Anh Bố, v.v... đều có sự khuất tất, do những mưu đồ vu cáo, hãm hại của chính vợ chồng Lưu Bang và các cận thần như Trần Bình, Trương Lương. Công lao, tài năng của Hàn Tín quá lớn khiến cho Lưu Bang không bao giờ yên tâm và phải tìm cách trừ khử, đúng như nhận định của Khoái Triệt và Vũ Thiệp trước kia.
Không phải một mình Hàn Tín là nạn nhân của sự bạc bẽo của vua Hán. Cho tới trước khi Lưu Bang chết, tất cả các khai quốc công thần làm vua chư hầu đều bị giết hoặc bị đuổi, phế truất (như Hàn Vương Tín, Lương vương Bành Việt, Hoài Nam Vương Anh Bố, Yên vương Tang Đồ, thậm chí cả Yên vương Lư Quán là bạn chí thân, Triệu vương Trương Ngao là con rể v.v...) bởi những tội trạng không rõ ràng để thay vào là các hoàng tử nhà họ Lưu.
Dù trước ông đã có trường hợp đại phu Văn Chủng nước Việt bị vua Câu Tiễn đối xử tương tự, nhưng khi nhắc đến câu “Thịt thỏ hết chó săn bị mổ"”, người ta vẫn thường nhắc đến chuyện của ông.
Nhận định
Hàn Tín là một danh tướng bách chiến bách thắng. Hán Cao Tổ Lưu Bang từng khen ông :
“ Nắm trong tay trăm vạn quân đã đánh là thắng, tiến công là nhất định lấy thì ta không bằng Hoài Âm Hầu.” —Hán Cao Tổ
Tên tuổi của ông gắn liền với những trận đánh nổi tiếng, được hậu thế nhắc đến như những điển hình về nghệ thuật quân sự như trận thế "bối thủy" phá Triệu, ngăn nước sông Tuy Thủy giết danh tướng Sở là Long Thư. Có thể nói không ngoa rằng về mặt quân sự trong tranh chấp giữa Hán và Sở, gần như một mình Hàn Tín quyết định cán cân nghiêng về phía nào.Ông theo Sở thì Sở thắng,theo Hán thì Hán thắng. Ông rất giỏi về quân sự nhưng về chính trị, ông không phải là đối thủ của Lưu Bang.
Dù sao đi nữa, hậu thế vẫn luôn nhìn nhận ông là một trong các đại tướng cầm quân xuất sắc nhất. Đền ơn bà giặt lụa, lại không báo oán anh hàng thịt chứng tỏ ông là người trung hậu, đạo đức, nhân từ và bị Lưu Bang, người bị các sử gia Trung Quốc gọi là “hoàng đế vô lại”, lợi dụng. Sau bị Lã Hậu hành hình rất ác: xẻo mũi, róc thịt, vứt xương cho chó ăn, giết cả 3 họ của ông, trước khi chết ông hận mình không nghe mưu của Khoái Triệt đúng như lời: "Thỏ khôn hết thì chó giỏi bị nấu, chim cao hết thì cung tốt bị cất".
thế rửa hờn trong văn học
Trọng Tương vấn Hán
Nỗi oan của Hàn Tín khiến người đời sau hết sức cảm thông, thương xót cho một viên tướng tài năng, trung thành nhưng bị đối xử quá bạc bẽo và phải chết oan khuất.
Một văn nhân Trung Quốc đời sau đã sáng tác truyện thơ hư cấu mang tên Trọng Tương vấn Hán, được chuyển thể sang tiếng Việt bằng thơ lục bát vào đầu thế kỷ 20. Nội dung cơ bản của Trọng Tương vấn Hán nói về tiền căn báo hậu kiếp hay luân hồi quả báo kể từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến cuối đời Đông Hán - Tam Quốc.
Theo đó, Hàn Tín kiếp sau được đầu thai làm Tào Tháo, còn Lưu Bang phải đầu thai làm Hán Hiến Đế Lưu Hiệp, còn Lã Hậu đầu thai làm Phục Hậu. Kiếp trước Hàn Tín bị Lưu Bang phụ bạc giết oan, kiếp sau Tào Tháo vẫn làm bầy tôi của Hiến Đế, nhưng chèn ép ức hiếp Hiến Đế và giết hại vợ Hiến Đế là Phục Hậu - Lã Hậu đầu thai. Những hành động của Tào Tháo với nhà Hán chính là việc làm báo oán kiếp trước của Hàn Tín.
Trọng Tương vấn Hán còn nói về nhiều sự đầu thai khác vào thời Tam Quốc của nhiều nhân vật thời Hán Sở.
Hàn Vương Tín
Cùng thời với Hàn Tín, còn một nhân vật khác cũng có tên Hàn TínÔng là con cháu nước Hàn thời Chiến Quốc. Khi các nước ở Sơn Đông nổi dậy chống Tần, để có danh nghĩa tập hợp lực lượng, người ta tìm lại con cháu của chư hầu cũ đưa lên ngôi. Đại thần nước Sở là Hạng Lương đã sai Trương Lương tìm Hàn Thành làm Hàn vương. Hàn Tín là người cùng họ nên cũng được làm tướng. Sau khi Hàn Thành bị Hạng Vũ giết, Hàn Tín được Lưu Bang lập làm Hàn vương để có vây cánh chống Hạng Vũ.
Năm 204 TCN, Hạng Vũ vây ngặt Huỳnh Dương. Lưu Bang nhờ Kỷ Tín đóng giả ra hàng để chạy thoát về Thành Cao, cử Hàn vương Tín cùng Tung Công, Ngụy Báo và Chu Hà ở lại giữ thành. Hạng Vũ biết bị Kỷ Tín lừa, giết Tín rồi đánh thành mạnh hơn. Chu Hà, Tung Công giết Ngụy Báo vì sợ Báo lại phản Hán lần nữa. Cuối cùng Hạng Vũ vẫn hạ được thành, Tung Công và Chu Hà không hàng nên bị giết, Hàn Tín bị cầm tù. Lúc này Đại tướng quân Hàn Tín kia đang bình định nước Triệu.
Khi diệt xong Hạng Vũ, Lưu Bang cải phong Hàn Tín lên Thái Nguyên là vùng xa xôi, giáp địa giới Hung Nô (hệt như cách làm với Sở vương Hàn Tín), do đó dẫn đến việc Tín làm phản, dẫn Hung Nô vào đánh Hán. Sau này Tín chạy sang nương nhờ bên Hung Nô.
Rất ngẫu nhiên là cả hai Hàn Tín đều nổi danh trong thời Tần mạt Hán hưng, đều theo thờ Lưu Bang và cả hai đều bị vua phụ. Đây có lẽ là sự trùng hợp ngẫu nhiên có một không hai trong lịch sử.
bèn học cách nhịn cơm, học lối đạo dẫn cho nhẹ mình.
Năm 195 TCN, Lưu Bang chết, Lưu Doanh lên thay, tức là Hán Huệ Đế.
Năm 188 TCN, Trương Lương qua đời, được đặt tên thuỵ là Văn Thành hầu. Con ông là Trương Bất Nghi thay cha làm tước hầu.

1 nhận xét: