
Vua Gia Long (chữ Hán: 嘉隆; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820) là vị Hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triềuphong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ông tên thật là Nguyễn Phúc Ánh (阮福暎 hoặc 阮福映; thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh), trị vì từ năm 1802 đến khi qua đời năm 1820.
Nguyễn Ánh sinh vào ngày 15 tháng giêng năm Nhâm Ngọ (tức ngày 8 tháng 2 năm 1762) tại Sài Gòn, là con trai thứ 3 của Nguyễn Phúc Luân và bà Nguyễn Thị Hoàn. Khi còn nhỏ Nguyễn Ánh còn có tên khác là Nguyễn Phúc Chủng và Noãn. Năm ông 4 tuổi, cha ông bị quyền thần Trương Phúc Loan bắt giam và chết trong ngục. Năm ông 9 tuổi (1771), khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ. Năm ông 13 tuổi (1775),chúa Nguyễn bị chúa Trịnh và quân Tây Sơn đánh kẹp từ hai mặt, ông cùng chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Quảng Nam rồi vượt biển vào Gia Định
Năm 1777, cả Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần, Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương cùng anh ruột Nguyễn Ánh là Nguyễn Phúc Đồng và một số người trong gia tộc khác bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ bắt giết, chỉ có một mình ông thoát nạn ở Long Xuyên. Ông chạy ra đảo Thổ Chu và được Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine), một giám mục người Pháp, che chở.
Là cháu của vị chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng Trong, sau khi gần như toàn bộ gia tộc bị quân Tây Sơn bắt giết năm 1777, Nguyễn Ánh phải trốn chạy và bắt đầu cuộc chiến 25 năm với Tây Sơn để khôi phục lại cơ nghiệp của dòng tộc. Sau nhiều thất bại lớn và phải cầu viện sự giúp đỡ của Xiêm La và Pháp, ông giữ vững được Nam Hà và đến năm 1802 thì đánh bại quân Tây Sơn, lên ngôi hoàng đế, thống nhất Việt Nam sau nhiều thế kỷ nội chiến.
Triều đại của ông được đánh dấu bằng việc chính thức sử dụng quốc hiệu Việt Nam với cương thổ rộng lớn nhất cho đến thời đó, kéo dài từ biên giới với Trung Quốc tới vịnh Thái Lan; thay thế các cải cách có xu hướng tự do của triều Tây Sơn bằng nền giáo dục và điều hành xã hội theo Nho giáo khắc nghiệt hơn; định đô tại Phú Xuân. Ngoài ra, ông còn là người mở đường cho các ảnh hưởng của người Pháp ở Việt Nam qua việc mời họ giúp xây dựng các thành trì lớn, huấn luyện quân đội và khoan thứ cho việc truyền đạoCơ đốc. Dưới triều đại của ông, Việt Nam trở thành một thế lực quân sự hùng mạnh ở Đông Dương, cùng Xiêm La phân chia ảnh hưởng đối với Chân Lạp.
Thất thế ở Nam Hà
Xưng vương
và Đỗ Thanh Nhơn
Sau chừng một tháng trốn chạy, khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đã về Quy Nhơn thì ông lại xuất hiện ở Long Xuyên, tiến lên Sa Đéc vớiĐỗ Thanh Nhơn và Lê Văn Quân ông ra hịch cáo quân và thu nhận được thêm một đội quân cùng các tướng Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Luông và Hồ Văn Lân... Tháng 11 năm 1777, ông tập hợp một đạo quân mặc toàn áo tang bất ngờ tấn công dinh Long Hồ và sau đó nhanh chóng đuổi quan trấn thủ Tây Sơn tại Gia Định là Tổng đốc Chu (hay Tổng đốc Châu), lấy lại thành Sài Côn tháng 12 cùng năm.
Năm 1778, khi Nguyễn Ánh được 17 tuổi, các tướng tôn ông làm Đại nguyên súy Nhiếp quốc chính Ông nhanh chóng tổ chức cai trị, phân chia hành chính đất Gia Định dưới sự cố vấn của Bá Đa Lộc, xây dựng chiến lũy phòng thủ và củng cố lực lượng thủy bộ đặt quan hệ ngoại giao với Xiêm La và sai binh đi chiếm Chân Lạp, biến quốc gia này thành chư hầu năm 1779.
Tháng 1 năm 1780, Nguyễn Ánh xưng vương, dùng theo niên hiệu Cảnh Hưng của nhà Lê và lấy ấn "Đại Việt quốc Nguyễn chúa Vĩnh Trấn chi bửu" làm ấn truyền quốc, phong cho Đỗ Thanh Nhơn chức Ngoại hữu, Phụ chính, Thượng tướng công. Sau đó ông ra sức củng cố và mở mang Phiên An trấn (vùng Sài Gòn-Gia Định-Long An hiện giờ) với mục đích biến vùng này thành căn cứ địa chống Tây Sơn. Cùng năm, người Chân Lạp lợi dùng tình hình nổi lên chống Nguyễn Ánh, ông sai Đỗ Thanh Nhơn và Dương Công Trừng đi đánh dẹp
Đỗ Thanh Nhơn vì có nhiều công lớn nên được Nguyễn Ánh đãi trọng,nhưng lại có biểu hiện hung bạo, cậy công lấn lướt quyền hành với Nguyễn Ánh, tạo thêm vây cánh thậm chí muốn giành quyền lựcThấy vậy, tướng Tống Phúc Thiêm bèn bày mưu để giết Đỗ Thanh Nhơn. Tháng 3 năm 1781, Nguyễn Ánh cùng tướng Tống Phúc Thiêm lập mưu giả bệnh, gọi Thanh Nhơn đến rồi sai võ sĩ giết chết. Đây là một việc gây nhiều tai hại cho Nguyễn Ánh: sau đó dù ông đã nhanh chóng đưa ra chính sách làm suy yếu quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn, nhưng họ vẫn phản lại Nguyễn Ánh, khiến ông phải đánh dẹp mãi, trong việc đánh dẹp này Thống binh Tống Văn Phước tử trận
Quan hệ với Xiêm La
Tháng 10 năm 1781, Xiêm La đưa quân sang đánh Chân Lạp. Nguyễn Ánh cho quân sang cứu. Khi quân Việt và quân Xiêm còn đang đánh nhau thì ở vương quốc Xiêm La, vua Xiêm La là Trịnh Quốc Anh bắt vợ con hai tướng Xiêm chỉ huy rồi sau đó có loạn. Điều đó buộc hai tướng Xiêm là Chất Tri và Sô si phải thỏa hiệp với quân Việt, thề cứu nhau trong lúc hoạn nạn rồi rút về nước dẹp loạn Phan Nha Văn Sản và giết quốc vương Trịnh Quốc Anh. Chất Tri lên ngôi, tức vua Rama I của Xiêm La, mở đầu nhà Chakri. Chính biến ở Xiêm khiến quan hệ giữa Nguyễn Ánh và Xiêm thay đổi: từ chỗ đối kháng trở thành đồng minh.
Thất thế trước Tây Sơn
Cũng trong mùa hè năm 1781, quân đội của Nguyễn Ánh lên đến khoảng 3 vạn người với 80 chiến thuyền đi biển, 3 thuyền lớn và 2 tàu Bồ Đào Nha do giám mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh mời được. Ông tổ chức tấn công Tây Sơn đánh tới tận đất Phú Yên nhưng sau cùng phải rút chạy vì gặp bộ binh rất mạnh của Tây Sơn. Tức giận vì tốn kém nhưng không thu được kết quả, quan lại Gia Định để cho một người phụ việc của Bá Đa Lộc là cai cơ Manue lập mưu giết chết các tay lính đánh thuê Bồ Đào Nha và cướp tàu của họ.
Tháng 3 năm 1782, Nguyễn Huệ cùng vua Thái Đức mang quân thuỷ bộ Nam tiến. Tây Sơn đụng trận dữ dội ở sông Ngã Bảy, cửa Cần Giờ với quân Nguyễn do chính Nguyễn Ánh chỉ huy. Dù lực lượng thuyền của Tây Sơn yếu hơn, nhưng nhờ lòng can đảm của mình họ đã phá tan quân Nguyễn, buộc Manuel tự sát, tuy vậy cũng thiệt hại khá nhiều binh lực. Nguyễn Ánh bỏ chạy về Ba Giồng, rồi có khi trốn sang tận rừng Romdoul, Chân Lạp.Vua Thái Đức khi chiếm lại Nam bộ gặp phải sự chống đối mạnh của người Hoa ủng hộ Nguyễn Ánh tại đây khiến cho một thân tướng là Đô đốc Phạm Ngạn tử trận, binh lính thương vong nhiều, nên ông rất đau đớn rồi nổi giận ra lệnh tàn sát người Hoa ở Gia Định để trả thù Việc này đã cản chân Tây Sơn trong việc truy bắt Nguyễn Ánh, khiến cho Nguyễn Ánh có cơ hội quay trở về Giồng Lữ, một đô đốc Tây Sơn là Nguyễn Học đem quân đuổi theo Ánh bị quân Nguyễn bắt giết khiến cho Nguyễn Ánh có được 80 thuyền của Tây Sơn. Nguyễn Ánh thấy vậy định kéo về chiếm lại Gia Định nhưng đụng Nguyễn Huệ dàn binh quay lưng ra sông đánh bại khiến Nguyễn Ánh phải chạy về Hậu Giang, Rạch Giá, Hà Tiên rồi theo thuyền nhỏ trốn ra Phú Quốc.
Thấy Nguyễn Ánh đã hết sức phản kháng, anh em Tây Sơn rút quân về Qui Nhơn, để lại hai hàng tướng của quân Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập và Hộ bộ Lãnh trấn giữ Gia Định .Châu Văn Tiếp, một tướng trước đây từng theo Tây Sơn, cùng Nguyễn Phước Mân lại từ Bình Thuận mang quân vào đánh chiếm được Gia Định và đón Nguyễn Ánh trở về. Nguyễn Ánh tìm cách tổ chức lại Gia Định nhưng quân của ông rất yếu ớt vì các thất bại trước, buộc ông phải sai sứ là Lê Phước Điển và Lê Phước Bình sang Xiêm trước để đề phòng Tây Sơn vào, đồng thời ủy thác cho Bá Đa Lộc chuẩn bị trước thuyền bè để khi Tây Sơn đến có đường mà đi. Tháng 2 năm 1783, Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ mang quân Nam tiến. Dù Nguyễn Ánh đã lập tuyến phòng thủ trước nhưng vẫn bị quân Tây Sơn phá tan, tướng của Nguyễn Ánh là Nguyễn Phước Mân bị giết chết, Dương Công Trừng bị bắt. Nguyễn Ánh buộc phải bỏ chạy về Phú Quốc. Nhưng một tháng sau ông lại tụ tập được một đạo quân người Chân Lạp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huỳnh Đức quay về Đồng Tuyên. Nguyễn Huệ đánh phá Đồng Tuyên, bắt hoặc giết hầu như toàn bộ tướng của Nguyễn Ánh, buộc ông lại bỏ chạy ra đảo Phú Quốc, ở tại đảo Diệp Thạch (hòn Đá Chồng). Sau trận Đồng Tuyên, quân binh người Hoa trở mặt làm phản, chiếm Hà Tiên, giết chết tướng của Ánh là Nguyễn Kim Phẩm và công chúa Ngọc Hoa. Ở vùng đảo thuộc Vịnh Thái Lan, Nguyễn Ánh thu nạp được một số hải tặc Xiêm La, rồi ông tổ chức các đợt cướp vùng Hà Tiên để kiếm khí giới và lương thực cho binh lính, các hoạt động này khiến cho nơi trú ẩn của Nguyễn Ánh bị lộ.
Tháng 6 âm lịch năm 1783, một tổng suất của quân Tây Sơn là Phan Tuấn Thuận truy kích, Nguyễn Ánh trốn bằng cách cưỡi trâu lội qua sông rồi đem mẹ và vợ con ra Phú Quốc. Quân Tây Sơn truy tới nơi, nhờ tướng Lê Phước Điển mặc áo ngự đóng giả Nguyễn Ánh khiến Tây Sơn bắt nhầm; ông chạy thoát chạy ra được đảo Cổ Long, mất hết thuộc tướng. Một tháng sau, dò biết được Ánh đang ở Phú Quốc, Nguyễn Huệ sai phò mã Trương Văn Đa của Tây Sơn kéo quân vây đánh 3 vòng trùng trùng điệp điệp, nhưng lúc đó có bão biển, các thuyền Tây Sơn phải giãn ra và một số bị đánh đắm, Nguyễn Ánh thừa cơ lên thuyền trốn sau 7 ngày đêm lênh đênh trên biển, ông quay ra hòn Cổ Cốt rồi về đảo Phú Quốc. Thời gian này, vì thiếu lương thực binh sĩ ông phải đi hái cỏ, đào củ để ăn.
Nguyễn Ánh vẫn tiếp tục quay lại Gia Định, ông cùng một cai cơ tên Nguyễn Văn Chính quay về Long Xuyên, bắt giết được một vị tướng của Tây Sơn tên là Quản Nguyệt, việc này đã đánh động đến Tây Sơn khiến cho ông suýt bị bắt, lại phải trốn đi trôi dạt qua các đảo Thổ Chu, Cổ Long, Cổ Cốt sống cuộc đời lưu vong "phẫn chí của một viên bại tướng" với vài trăm binh và thân cận.
Thời gian này, với những khó khăn gặp phải và mối quan hệ của Nguyễn Ánh với Bá Đa Lộc ngày càng thắt chặt, hình ảnh nước Pháp ngày càng lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Ánh, kèm theo lời bày của Bá Đa Lộc, Nguyễn Ánh nảy sinh ý định cầu viện Pháp.
Vào cuối năm 1783, Nguyễn Ánh giao cho Bá Đa Lộc một tờ quốc thư 14 khoản cầu viện Pháp và quốc ấn để vị giám mục này được toàn quyền thay mặt Nguyễn Ánh sang Pháp cầu viện triều đình vua Louis XVI. Đi kèm với Bá Đa Lộc là con cả của Nguyễn Ánh là Nguyễn Phúc Cảnh và các tướng Phạm Văn Nhơn, Nguyễn Văn Liêm. Sinh mạng của cậu bé về sau trở thành hoàng tử trưởng nhà Nguyễn, khi ấy mới lên 4 tuổi bị đưa ra "thế chấp" "làm con tin" trong cuộc cầu viện này. Sau đó ông từ biệt gia quyến đi nơi khác
Cầu viện Xiêm La
Châu Văn Tiếp và Trận Rạch Gầm - Xoài Mút
Khi Bá Đa Lộc chưa kịp đi vì trái mùa gió thì Nguyễn Ánh liên tiếp gặp những thất bại trước quân Tây Sơn, do đó ông có ý chuyển sang cầu viện Xiêm La. Nguyên trước đó, khi Nguyễn Ánh còn phải lênh đênh trốn chạy, tướng của ông là Châu Văn Tiếp chạy thẳng qua Xiêm cầu cứu. Đến tháng 2 năm Giáp Thìn (tháng 5 năm 1784), vua Xiêm La là Rama I cho tướng Thạt Xỉ Đa đem thuyền sang Hà Tiên đónNguyễn Ánh, trước đó nhận được thư của Châu Văn Tiếp, tới Long Xuyên hội kiến tướng Xiêm rồi cùng 30 viên quan và mấy chục tướng sĩ theo sang Xiêm La hội kiến vua Xiêm tại Vọng Các (Bangkok) vào tháng 3 năm 1784mà không màng việc thân tướng làNguyễn Văn Thành hết sức can ngăn việc cầu ngoại viện này. Đánh giá hành động này của Nguyễn Ánh, cầu viện quân đội nước ngoài vì lợi ích gia tộc, sử gia Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng trước đây gọi là "rước voi về giày mả tổ" và "cõng rắn cắn gà nhà"Tuy nhiên, ngày nay các nhà sử học Việt Nam đã có cách nhìn khác về việc nhờ cậy Xiêm của Nguyễn Ánh, đơn cử như ý kiến của sử gia Phan Huy Lê như sau: "Trước đây có quan điểm cực đoan gọi đây là hành động "cõng rắn cắn gà nhà", là "bán nước". Đúng là không thể biện hộ cho hành động "không sáng" này, cũng có thể coi là một tì vết trong sự nghiệp của Nguyễn Ánh, nhưng phải nhìn nhận công bằng. Trong những cuộc đấu tranh bên trong quyết liệt, việc nhờ đến ngoại viện là chuyện thường xảy ra trong lịch sử. Nhưng điều quan trọng nhất là người cầu ngoại viện phải giữ được độc lập chủ quyền của dân tộc, đưa lại lợi ích cho đất nước, còn nếu cầu ngoại viện mà bất lực để mất nước thì có tội lớn.".
Vua Xiêm nhân cũng đang có chiến tranh với Tây Sơn nên đồng ý giúp Nguyễn Ánh để dùng ông phân tán lực lượng Tây Sơn, hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương nhận lệnh đem 2 vạn quân thủy cùng 300 chiến thuyền. Ngoài ra còn có 3 vạn quân bộ tiến sang Chân Lạp với danh nghĩa giúp vua Chân Lạp, thực chất với ý đồ tạo gọng kìm phía Tây, chờ cơ hội tiêu diệt quân Tây Sơn. Quân Xiêm nhanh chóng lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc và làm đủ điều tàn bạo với dân chúng khiến cho Nguyễn Ánh rất thất vọngriêng Châu Văn Tiếp thì tử trận tại Mân ThítTướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là phò mã Trương Văn Đa, thấy quân Xiêm thế lực mạnh, bèn cố thủ tại Gia Định và sai người về Quy Nhơn báo. Vua Tây Sơn sai Long Nhương tướng quân Nguyễn Huệ đem quân vào đánh. Tây Sơn đã thắng lẫy lừng trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút. Chỉ một trận quyết chiến diễn ra không đầy một ngày đã tiêu diệt gần 2 vạn quân Xiêm, chỉ sót vài nghìn người chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Các tướng Chiêu Tăng, Chiêu Sương chạy theo đường bộ về Xiêm; còn Nguyễn Ánh phải bỏ chạy theo đường thủy qua Thổ Chu rồi về Cổ Cốt, sau đó một viên cai cơ tên Trung đem binh Xiêm đến đưa về Vọng Các, Xiêm La.
Lưu vong ở Xiêm và Hiệp ước với Pháp
Nguyễn Phúc Cảnh
Sau một năm chuẩn bị, ngày tháng 12 năm 1784giám mục Bá Đa Lộc cùng Nguyễn Phúc Cảnh và phái đoàn đem quốc thư của Nguyễn Ánh xuống thuyền đi Malacca rồi sangPondichéry ở Ấn Độ (thuộc Pháp), còn Nguyễn Ánh đưa mẹ và vợ sang trú ở Long Kì (hay Đông Khoai, Vọng Các) Nguyễn Ánh cũng thu nhận được thêm một số binh tướng từ Đại Việt sang, ông cho tổ chức lại binh tướng trên đất Xiêm, lâu lâu cho quân đột kích về Gia Định. Đồng thời, ông cũng giúp vua Xiêm đánh Miến Điện và Mã Lai, nên Xiêm La rất hậu đãi. Khoảng năm 1787, thực dân Bồ Đào Nha từ Macao sang Xiêm gặp và đặt vấn đề giúp Nguyễn Ánh, Nguyễn Ánh cũng sai sứ đi, nhưng việc không thành vì những đòi hỏi của Bồ Đào Nha cũng như sự không vừa lòng của vua Xiêm
Do một số vấn đề rắc rối tại Pondichéry, mãi đến tháng 2 năm 1787 Bá Đa Lộc và Nguyễn Phúc Cảnh mới tới hải cảng Lorient ở Pháp và mất một thời gian vận động, đầu tháng 5 năm 1787 họ mới được gặp vua Louis XVI. Ngày 28 tháng 11 năm 1787tại cung điện Versailles, Bá Đa Lộc với tư cách là đại diện của Nguyễn Ánh đã ký với Thượng thư Bộ Ngoại giao Pháp là Armand Marc, một bản hiệp ước "Tương trợ tấn công và phòng thủ" (thường gọi là Hiệp ước Versailles). Hiệp ước này gồm có 10 khoản, nội dung chính là về việc vua Pháp cam kết cung cấp cho Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu chiến loại frégaté cùng 1.200 bộ binh 200 pháo binh và 250 lính Cafres (lính da đen châu Phi) và các phương tiện trang bị vũ khí tương ứng; ngược lại Nguyễn Ánh chấp thuận nhường cửa biển Đà Nẵng và quần đảo Côn Lôn cho Pháp, cho phép người Pháp được quyền tự do buôn bán và kiểm soát thương mại của người nước ngoài ở Việt Nammỗi năm sẽ đóng trả cho Pháp một chiếc tàu giống với loại tàu Pháp viện trợ đồng thời cung cấp lương thực và quân nhu thiết yếu cho Pháp khi Pháp có chiến tranh với một nước khác ở khu vực Viễn Đông
Các sử gia về sau cho rằng tuy là ký kết dưới danh nghĩa Nguyễn Ánh, nhưng người chịu trách nhiệm về việc soạn ra các điều khoản đặc biệt có lợi cho phía Pháp trong hiệp ước này có thể là giám mục Bá Đa Lộc chứ không phải là chính bản thân Nguyễn Ánh; nếu không có lệnh đình chỉ việc thực thi điều ước thì khi trao đổi văn kiện chưa chắc Nguyễn Ánh đã chịu chấp nhận một hiệp ước bất bình đẳng như thế nàyNhưng dù như thế nào, Hiệp ước Versailles năm 1787 không thành hiện thực.
Về nước
Sau 3 năm lưu vong ở Xiêm, thấy vua Xiêm ngày càng tỏ ra không vừa lòng vì lực lượng của Nguyễn Ánh trở nên quá mạnh, ông viết thư cảm ơn rồi ban đêm lặng lẽ trở về vùng Gia Định vào tháng 8 năm 1787 để tập hợp lực lượng; đóng quân tại Nước Xoáy (Hồi Oa), Sa Đéc thuộc vùng Hậu GiangThời gian này ông cũng nhận được sự giúp đỡ mạnh mẽ hơn của người Pháp thông qua giám mục Bá Đa Lộc. Trong lúc Nguyễn Huệ bận đối phó với quân Thanh tại Bắc Hà (1788-1789), vùng Gia Định dưới quyền Tây Sơn cũng không ổn định, quân Tây Sơn bị cô lập trước dân chúng địa phương vốn có nhiều cảm tình với Chúa Nguyễn nói chung và Nguyễn Ánh nói riêng, tướng Tây Sơn giữ Long Xuyên là Chưởng cơ Nguyễn Văn Trương hàng quân Nguyễn và Nguyễn Ánh lại thu nhận được nhiều binh lính địa phương; sau đó ông bắt đầu tổ chức tấn công Tây Sơn. Đông Định vương Nguyễn Lữ nghe tin Nguyễn Ánh trở về vội vã tránh đi nơi khác để Gia Định cho Phạm Văn Tham (hay Phạm Văn Sâm) giữ. Sau đó thế quân Nguyễn Ánh ngày càng mạnh khiến Nguyễn Lữ sợ hãi mang quân bản bộ rút chạy về Quy Nhơn.
Mặc dù sau đó Phạm Văn Tham đã nỗ lực chống trả nhưng vì không nhận được viện binh, lại trúng mưu Nguyễn Ánh ly gián với Nguyễn Lữvà cuối cùng là cái chết vì bệnh của Nguyễn Lữ đã làm thế Tây Sơn ở Gia Định ngày càng yếu đi. Phạm Văn Tham vẫn cố đơn độc chiến đấu, nhiều lần đánh lui quân Nguyễn, có lần đã buộc Nguyễn Ánh và thuộc hạ phải chạy tới tận Cù lao Hổ .Nhưng thế Nguyễn Ánh vẫn còn vững do việc ông đã lập tức tìm cách củng cố thế đứng ngay khi chiếm được Mỹ Tho: ông cho thành lập các dinh trấn, cho các tướng quản lý, tổ chức lại quân đội
Quân tướng theo Nguyễn Ánh ngày càng đông, Phạm Văn Tham vẫn cố chống cự để chờ viện binh, nhưng lúc đó Thái Đức Hoàng đế chỉ lo phòng bị Bắc Bình vương Nguyễn Huệ ở phía Bắc mà không đoái hoài đến việc cứu phía Nam
Quân Tây Sơn ở Gia Định ngày càng thế cùng sức kiệt và không ngừng bị quân Nguyễn Ánh bao vây chia cắt, chiêu hàng tướng sĩ. Đến năm 1788, Võ Tính đem hơn 1 vạn quân theo Nguyễn Ánh . Cùng năm, Nguyễn Ánh tấn công và lấy được Gia Định, Phạm Văn Tham rút ra ngoài tiếp tục chống trả. Đầu năm 1789, Phạm Văn Tham bị Nguyễn Ánh vây chặt, lại bịt đường ra biển về Quy Nhơn nên buộc phải đầu hàng. Tây Sơn lại mất Nam
Người Pháp giúp đỡ :Quan hệ của Nguyễn Ánh và người Pháp
Ngày 27 tháng 12 năm 1787, Bá Đa Lộc cùng Nguyễn Phúc Cảnh rời Pháp và trở lại Pondichéry để đợi sự chi viện từ phía chính quyền Louis, nhưng ngày 14 tháng 7 năm 1789 giai cấp tư sản Pháp đã làm cuộc cách mạng lật đổ triều đại phong kiến Louis, thiết lập nền cộng hòa tư sản, cộng thêm việc Bá tước nhận trách nhiệm chi viện là De Conway vốn có hiềm khích với Bá Đa Lộc đã tấu sàm, nước Pháp tỏ ra không muốn nhắc đến hiệp ước cũ nữaChờ mãi không nhận được sự chi viện từ Bá tước De Conwaygiám mục Bá Đa Lộc đã tự quyên góp tiền từ các thương gia có ý định đặt cơ sở buôn bán ở Đại Việt cùng với số tiền 15.000 franc Pháp của gia đình mình cho, đem mua súng đạn và tàu chiến. Tháng 7 thì Bá Đa Lộc cùng Nguyễn Phúc Cảnh về đến Gia Định. Các hoạt động quyên góp sau này về tiền hay xây dựng, sửa sang thành Gia Định, Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên, Biên Hòa, Bà Rịa, huấn luyện cơ đội pháo thủ, tổ chức bộ binh và rèn luyện tập binh lính theo lối châu Âu, trung gian mua tàu chiến và vũ khí... đều có sự góp sức của những người Pháp mà do Bá Đa Lộc chiêu mộ, kêu gọi Việc củng cố Gia Định cộng thêm sự giúp đỡ từ người Pháp đã giúp cho thế lực của Nguyễn Ánh ngày càng mạnh, có thể đối đầu với Tây Sơn.
Các hoạt động giúp đỡ Nguyễn Ánh về mặt quân sự của giám mục Bá Đa Lộc không phải là sự trợ giúp chính thức của chính phủ Pháp mà chỉ là hành động tự nguyện của một nhóm người theo sự vận động cá nhân của giám mục. Thực tế này đã bị cuộc cách mạng 1789 ở Pháp biến thành một "sự nhập nhằng không rõ ràng" và những biến động liên tục của nước Pháp từ cuộc cách mạng này khiến hơn nửa thế kỷ sau nước Pháp luôn phải hoài nghi và nuôi hy vọng hão huyền về những quyền lợi tại Việt Nam mà họ nghĩ lý ra là họ phải được nhận. Chính phủ Pháp chỉ còn ghi nhớ hiệp ước 1787 về công cuộc trợ giúp của người Pháp đối với Nguyễn Ánh ở Việt Nam, ngoài ra không còn một bằng cớ xác đáng nào về vấn đề đó.
Ổn định Nam Hà
Quân Tây Sơn vào thời gian này thường xuyên đột kích Gia Định để lấy lương thực vào mùa gặt. Vì vậy, hành động đầu tiên của Nguyễn Ánh sau khi chiếm được thành Gia Định nhờ các sĩ quan Pháp trong quân đội mình xây dựng một tòa thành kiểu châu Âu trên đất Gia Định. Tòa thành này bắt đầu được xây dựng vào năm 1789], do hai sĩ quan Pháp là Theodore Lebrun và de Puymanel thiết kế với tổng nhân công xây dựng là 30.000 người. Việc xây dựng này đã buộc quan lại Gia Định phải áp một mức thuế cao, và các nhân công lao động bị buộc phải làm việc tới cực hạn, khiến cho một cuộc nổi loạn xảy ra. Đến năm 1790, tòa thành hoàn tất với chu vi khoảng 4176mét, xây theo theo kiểu Vauban có ba mặt được sông nước che chở có tên là Bát Quái, Nguyễn Ánh cho đặt Phiên An trấn thành Gia Định kinh (kinh thành hay thủ phủ Gia Định) Việc xây dựng tòa thành này đã khiến cho Tây Sơn không bao giờ tìm cách chiếm lại Gia Định nữa, đem đến cho Nguyễn Ánh một lợi thế nhất định trước kẻ thù chính của ôngNguyễn Ánh tỏ ra rất thích thú về mảng kỹ thuật xây thành quách của phương Tây, ông yêu cầu các sĩ quan Pháp đi về châu Âu và tìm cho ông các sách và nghiên cứu về chủ đề này
Cũng trong thời gian này, ông cũng tổ chức lại chính quyền bằng cách lựa các viên tham mưu quân đội chuyển qua các bộ lập thành một triều đình, đồng thời cho tăng cường phát triển giáo dục, mở khoa thi, thu dùng các nhân sĩ người Việt và Minh Hương đã theo ông trước đóNăm 1788, Nguyễn Ánh cho lập kho Bốn Trấn làm kho chung cho các trấn Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, và Định Tườngđể thu thuế và làm ngân quỹ cấp lương bổng cho quan lạiĐến tháng 6 năm 1789, ông đưa ra chính sách lấy sản xuất nông nghiệp làm trọng trên cơ sở số lớn đất đai phì nhiêu nhưng lại bị bỏ hoang nhiều vì cả lý do cộng đồng di dân chưa định hình lẫn chiến tranh liên miên ở vùng Gia ĐịnhNguyễn Ánh cho đặt nhóm quan điền toán gốm 12 người (một số vị nổi bật là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tòng Châu, Hoàng Minh Khánh) để đi bốn dinh miền Nam là Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh, Trấn Định để đốc thúc nhân dân làm việc nông nghiệp, phàm ai lười biếng sẽ bị bắt sung quânNgoài ra, Nguyễn Ánh còn đề ra chính sách là nếu người hoặc nhóm người làm ruộng đất tốt thu trên 100 thùng lúa, còn ruộng đất xấu thu trên 70 thùng lúa thì sẽ được thưởng như sau: dân thường sẽ được miễn việc xâu (những việc quan lại cần nhân công địa phương làm như đào kênh, đắp thành) một năm; phủ binh thì sẽ được miễn đi đánh nhau một năm. Còn về những người dân lậu (người không ở trong sổ bộ quản lý của địa phương) cũng có thể làm ruộng dưới sự chăm sóc của quan điền toán và được xem như là một người lính; nếu như họ thiếu vốn thì cũng có thể được cho vay trả sauTừ tháng 10 năm 1790, binh lính cũng được huy động vào việc sản xuất nông nghiệp khi phép Ngụ binh ư nông được thi hànhBinh lính được khuyến khích cầy cấy để tận dụng các mảnh đất bị bỏ hoang vì chiến tranhNhóm Trung Quân và các nhóm thủy quân được cử đến khai thác vùng Thảo Mộc Câu (sông Vàm Cỏ ngày nay) lập ra trại Đồn Điền dưới sự chỉ huy của chánh cơ Nguyễn Bình. Trại này được nhà nước trợ cấp dụng cụ và giống cây, phần thu hoạch được sẽ sung vào kho công.Các quan địa phương khác cũng phải lập đội đồn điền và nộp thuế theo hạn mức 6 hộc lúa mỗi người trong đội; bất cứ ai tuyển được 10 người trở lên sẽ được làm quan quản trại và trừ tên trong sổ làng (tức là khỏi đi lính). Số lúa gạo thu được từ các đồn điền này được giữ trong một kho gọi là kho Tích Trữ (về sau đổi thành kho Đồn Điền hay Đồn Điền khố theo âm Hán-Việt)
Để có thêm lúa gạo phục vụ chiến tranh, Nguyễn Ánh cho đặt thêm thuế phụ ngoài thuế ruộng (thuế điền) một năm hai kỳ thu là thuế thị túc và thị nạp. Mức thu như sau:
§ Năm 1792, từ một tới năm phương lúa trên một người
§ Năm 1799, vùng Bình Định và Phú Yên nộp 17 thăng gạo cho mỗi mẫu ruộng
§ Năm 1800, mỗi người ở Gia Định nộp hai phương gạo (riêng người già và tàn tật thì chỉ nộp một nửa). Ruộng mỗi mẫu sẽ nộp 1 phương gạo.
Tới năm 1791, Nguyễn Ánh cho đặt một lệ về việc khẩn hoang rằng ba năm đầu từ ngày khẩn hoang sẽ miễn thuế. Ai muốn khẩn hoang phải nộp đơn trước 20 ngày, sau hạn này ruộng sẽ giao cho binh lính, dân chúng không được quyền tranh chấp nữa
Các chính sách cải cách nông nghiệp này đã khiến việc sản xuất lúa gạo ở vùng Gia Định tăng cao và giúp rất lớn cho việc chiến tranh với Tây Sơn của Nguyễn Ánh. Trong thời gian này, ông có thể nuôi được một đội quân lên đến 30.000 lính và 1.200 thuyền chiến (ước tính năm 1800) cũng như đáp ứng nhu cầu quân nhu các lần ông đi đánh nhau với Tây Sơn ở Diên Khánh (năm 1795 và 1796) và Quy Nhơn (năm 1799) một cách "không hề thiếu thốnMột chứng minh khác cho việc dư lúa gạo này là việc năm 1802 có nạn đói lớn ở Gia Định, Nguyễn Ánh lấy kho gạo quân ra phát cho dân và cho giảm thuế ruộng ở Gia ĐịnhCùng trong thời gian này, khi nghe tin quân Thanh giúp Lê Chiêu Thống sang đánh Tây Sơn, Nguyễn Ánh từng sai Phạm Văn Trọng và Lâm Đồ mang thư và chở 50 vạn cân gạo ra giúp quân Thanh nhưng thuyền đi giữa đường bị đắm hết; cũng đồng thời bên Xiêm La có hạn hán, Nguyễn Ánh cho xuất 8.800 vuông gạo để giúpSử gia Tạ Chí Đại Trường nhận xét những việc trên như sau: "...chính sách đồn điền nhằm vào việc khai phá đất đai làm ruộng bằng cách khiến moi người không dừng được, phải tham gia với sự đôn đốc, kiểm soát, trợ giúp của chính phủ. Đó là một chính sách nông nghiệp cưỡng ép, có từ xưa nhưng bây giờ lại được áp dụng trên một quy mô rộng lớn, khiến vùng Gia Định trở nên phồn thịnh, sản xuất dồi dào quyến rũ được đám dân nghèo đói Bình Thuận, Phú Yên .. bỏ xứ chạy vào làm tăng dân số, uy tín nội bộ cho Nguyễn Ánh, để dư gạo giúp Xiêm đói, giúp Thanh đánh Tây Sơn và cuối cùng để đủ binh lương cho quân lính dùng khi tràn ra phía Bắc đánh đám người kiệt hiệt đã làm ông khốn đốn khi xưa". Đánh giá chung về thành quả khai khẩn mà Nguyễn Ánh đã làm ở miền Nam của Việt Nam, sử gia Trần Trọng Kim có nói "Cách Nguyễn Vương khai khẩn đất Gia Định thật là khôn khéo, khiến cho đất Nam Việt trước là một chỗ đất bỏ hoang, không có người ở, mà sau thành ra một nơi rất đông người và rất trù phú trong nước Nam ta. Ấy cũng là một cái công lớn của ông Nguyễn Phúc Ánh vậy."
Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn gặp khó khăn với cư dân bản địa của vùng Gia Định là người Khmer vì tính nay đầu mai đánh của họ, ông phải cho hai tướng người Khmer của mình về coi các vùng có số dân Khmer đông để thiết lập các khu vực tự trị, đề ra các chính sách và luật lệ hạn chế xung khắc với người Việt, việc tương tự cũng diễn ra ở khu vực Hà TiênĐối với người Hoa, ông đưa ra chính sách đối xử với họ cũng giống như người Việt: cũng phải nộp thuế, đi lính; lập chức Tổng phủ người Hoa cai quản hai vùng phức tạp Ba Thắc vàTrà Vinh Ngoài ra, ông cũng cho kiểm tra dân số để tiện việc bắt lính và thu thuế, đưa ra các chính sách chống trộm cướp và gìn giữ an ninh; các hình thức tệ nạn như phù thủy,đổ bác, đồng bóng, hát xướng đều bị cấm. Đồng thời đưa ra chính sách hạn chế việc nấu rượu để tiết kiệm gạo, cho thuộc quan tổ chức các hoạt động mua vui cho dân chúng.
Để tăng cường quân đội, kinh tế và phòng thủ, từ tháng 10 năm 1788, ông cho người bắt tráng đinh thành lập các phủ binh. Đồng thời, việc mua bán với nước ngoài cũng được khuyến khích và kiểm soát chặt chẽ (nhất là đối với các mặt hàng có liên quan tới quân sự như kẽm, sắt, đồ đồng, diêm, lưu huỳnh), để có thêm nguồn tài chính và binh khíHễ thuyền nào có chở các thứ trên thì quan lại ở Gia Định sẽ mua rồi thanh toán lại bằng gạo tùy theo số hàng ít hay nhiều. Đối với vũ khí mà các thuyền buôn của người Châu Âu mang đến, Nguyễn Ánh giao cho các quan chỉ huy quân sự ở Trấn Biên mua lại bằng đường cát.
Ở Cần Giờ, Đồng Tranh, Vũng Tàu, ông cho dựng các phong hỏa đài, các Thành Cá Trê, Thành Vàm Cỏ được xây lại, các tướng thân cận chia ra đóng quân và tuần tiễu ở các nơiKỷ luật quân đội được Nguyễn Ánh siết chặt và ông thực hiện luân chuyển "binh luôn theo tướng" để đảm bảo khả năng chỉ huy luôn ở mức tốt nhất. Bên cạnh đó, Nguyễn Ánh còn cho lựa ra các quân tinh nhuệ, hăng hái đánh kẻ địch của ông để luyện tập kỹ càng và cấp lương hậu, tạo ra một nhóm quân riêng gọi là quân chiến tâm.Ngoài ra, để cổ vũ tinh thần quân lính, ông rất quan tâm đến việc phong thưởng và đãi ngộ binh sĩ tử trận và có công lập sở Hoạn dưỡng để chăm sóc thương binh, các đền Hiển Trung, Sinh Trung để thờ cúng binh sĩ tử trận.
Nhận thấy địa thế Gia Định là sông ngòi và biển nhiều, ông ra sức lập các xưởng đóng thuyền và Thủy Sư cho đóng thuyền với nhiều kiểu, mà quan trọng nhất là chiến thuyền để phát triển hải quân: thuyền hải đạo, đại hiệu dùng đi biển, thuyền chiến với hình thức tàu buôn cải tiến phần mui và kích thước, âu thuyền.. Đến năm 1797 có cho đóng thuyền lớn kiểu Tây Dương
Đồng thời với các việc trên là công cuộc giao thiệp với ba nước lớn Xiêm La, Chân Lạp, Vạn Tượng: ông cho quân chiếm đóng Chân Lạp, giữ quan hệ hòa hiếu với Xiêm La để yên ổn với Vạn Tượng (khi này trong tầm khống chế của Xiêm La), ngoài ra còn có quan hệ với một ít quốc gia nhỏ khác Kết quả là cả ba quốc gia lớn đều có sự giúp đỡ ít nhiều cho Nguyễn Ánh trong cuộc chiến của mình
Bắc tiến thắng lợi
Tây Sơn suy yếu: Trận Thị Nại (1792)
Năm 1790, Nguyễn Ánh sai tướng đem 5000 quân thủy bộ ra đánh chiếm được Phan Rí và Bình Thuận. Đến năm 1792, nương theo gió Nam, ông sai hai tướng Nguyễn Văn Trương,Nguyễn Văn Thành cùng hai sĩ quan đánh thuê người Pháp là Dayot và Vannier đánh một trận và đốt phá thủy trại Tây Sơn tại Thị Nại rồi rút về
Sau khi chiến thắng quân Thanh, vua Quang Trung đang chuẩn bị phối hợp với vua anh đem quân vào Nam đánh Gia Định thì đột ngột qua đời (1792), con là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối ngôi, hiệu là Cảnh Thịnh. Loạn lạc liền nổ ra ở Bắc Hà: sĩ phu trung thành với nhà Lê nổi lên tôn Lê Duy Cận làm minh chủ, Duy Cận liên lạc với Nguyễn Ánh để cùng đánh Tây Sơn, việc này góp phần làm cho nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Nội bộ Tây Sơn xảy ra tranh chấp, quyền hành rơi vào tay ngoại thích Bùi Đắc Tuyên. Từ đó, Nguyễn Ánh ra sức mở các đợt tấn công ra Quy Nhơn theo nguyên tắc đã định trước đó: "Gặp nồm thuật thì tiến, vãn thì về, khi phát thì quân lính đủ mặt, về thì tản ra đồng ruộng Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn định cho sứ đi ngoại giao với Trung Quốc, lợi dụng mâu thuẫn và thù hằn của quốc gia này với Tây Sơn, và cả sự có mặt của Lê Chiêu Thống bên đó để khiến Trung Quốc giúp mình nhưng việc không thành do khi sứ của Nguyễn Ánh là Ngô Nhơn Tĩnh và Phạm Thận sang đến nơi thì Lê Chiêu Thống đã mất
Cửa tòa thành Diên Khánh, xây bởi Olivier de Puymanel sau khi quân Nguyễn chiếm được vùng này năm 1793
Năm 1793, Nguyễn Ánh cùng các tướng Võ Duy Nguy, Nguyễn Văn Trương, Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Phước Hội, Philippe Vannier, Nguyễn Văn Hòa, Chưởng cơ Cốđem quân đánh Nha Trang, Diên Khánh, Phú Yên rồi tranh thủ đánh tới tận thành Quy Nhơn của Nguyễn Nhạc. Vua Thái Đức cầu cứu Phú Xuân. Cảnh Thịnh sai Ngô Văn Sở, Phạm Công Hưng, đô đốc Hốvà Chưởng cơ Thiêm đem 17.000 quân, 80 thớt voi,và 30 chiếc thuyền chia nhiều đường tiến vào cứu, quân Nguyễn Ánh rút luitrên đường về ông sai quân đắp thành Diên Khánh để lợi dụng địa thế nơi này làm bàn đạp chống Tây Sơn. Cùng thời gian, quân Phú Xuân của Tây Sơn nhân dịp đánh chiếm luôn đất đai, kho tàng của vua Thái Đức. Lúc đó Nguyễn Nhạc đang bệnh trên giường, nghe tin cơ nghiệp của con mình là Quang Bảo bị chiếm mất uất quá thổ huyết mà qua đờiQuang Toản cho an trí Quang Bảo ra huyệnPhù Ly và cai quản toàn bộ đất đai của vua bác.
Từ năm 1794 đến năm 1795, Tây Sơn phản công, họ cho quân nhiều lần vào đánh Phú Yên, vây thành Diên Khánh, quân Nguyễn cũng ra sức chống cự, nhiều lần kìm hãm thậm chí là đánh lại được quân Tây SơnTuy nhiên nội bộ Tây Sơn lại mâu thuẫn, các tướng tranh quyền. Vũ Văn Dũng giết Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở, Quang Toản không làm gì được. Trần Quang Diệu đang đi đánh Nguyễn Ánh, nghe tin đành rút quân về, suýt đánh nhau với Vũ Văn Dũng may nhờ có Quang Toản sai quan ra khuyên giải Trần Quang Diệu mới đồng ý hòa. Nhưng sau đó Quang Toản lại nghe lời gièm pha tước mất binh quyền của Trần Quang Diệu, Tây Sơn từ đó cứ lục đục mãi, các quan nghi kị giết hại lẫn nhau tạo điều kiện thuận lợi cho Nguyễn Ánh.
Thống nhất quốc gia
Trận Thị Nại (1801) và Cuộc bao vây thành Quy Nhơn
Biến loạn tạm thời dẹp yên nhưng đã làm chính quyền Tây Sơn suy sụp. Một bộ phận tướng lĩnh bất mãn đã bỏ sang theo Nguyễn Ánh. Nguyễn Ánh nhân thời cơ đó ra sức Bắc tiến.
Năm 1797, Nguyễn Ánh cho quân ra đánh Phú Yên, riêng mình thì cùng Nguyễn Phúc Cảnh chỉ huy thủy quân ra tận Quy Nhơn đánh nhau với tướng Tây Sơn là Lê Trung tại Thị Nại thu được nhiều khí giới, nhưng khi tới Quy Nhơn thấy thế Tây Sơn thủ mạnh quá đành vòng lên đánh Quảng Nam nhưng được mấy tháng lại rút vềthuyền chở quân lương từ Gia Định bị ngược gió không lên kịp.
Nguyễn Ánh chiêu dụ Quang Bảo nhưng việc chưa thành vì Quang Toản ra tay trước, bắt và giết được Quang BảoNhưng Tây Sơn lại rơi vào lục đục, Quang Toản nghi ngờ giết hại nhiều triều thần, võ tướng, khiến cho sức chiến đấu suy giảm, thêm nhiều người sang hàng Nguyễn Ánh
Năm 1799, Nguyễn Ánh cho sứ yêu cầu vua Xiêm La cho một đạo quân Chân Lạp và Vạn Tượng đi đến sát biên giới Nghệ An để nghi binh và vua Xiêm đồng ý làm theo
Cũng trong năm 1799, Nguyễn Ánh tự cầm quân đi đánh thành Quy Nhơntướng giữ thành của Tây Sơn là Vũ Tuấn đầu hàng dù trước đó Quang Toản đã sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem quân vào cứuSau đó, Nguyễn Ánh đổi tên Quy Nhơn thành Bình Định, rồi cho quân tới trấn giữ thành. Tây Sơn ngay lập tức tìm cách chiếm lại; tháng 1năm 1800, hai danh tướng Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng kéo đến vây thành Quy Nhơn. Nguyễn Ánh cho quân ra cứu nhưng bị bộ binh Tây Sơn chặn lại, ông chia quân đi đánh các nơi và thắng nhiều trận, trong đó có một trận lớn ở Thị Nại Thấy thế Tây Sơn vây Quy Nhơn còn mạnh, Nguyễn Ánh cho người lẻn mang thư đến bảo tướng quân Nguyễn giữ thành là Võ Tánh mở đường máu mà trốn ra nhưng Võ Tánh quyết tử thủ để tạo đều kiện cho Nguyễn Ánh đánh Phú Xuân, việc này khiến thời gian hai danh tướng Tây Sơn bị cầm chân lên hơn một năm[117]. Năm 1801, Nguyễn Ánh nhận thấy tinh binh Tây Sơn đều tập trung cả ở chiến trường Quy Nhơn nên mang quân chủ lực vượt biển ra đánh Phú Xuân. Tháng 5 năm 1801, Nguyễn Ánh kéo quân đánh nhau dữ dội với Tây Sơn ở cửa Tư Dung; rồi đụng Quang Toản ở cửa EoQuang Toản thua trận bỏ chạy ra Bắcvà đến 3 tháng 5 Nguyễn Ánh giành được Phú Xuân
Cùng thời gian nghe tin Phú Xuân bị đánh, Trần Quang Diệu đang vây Quy Nhơn sai binh về cứu nhưng bị quân Nguyễn chặn đánh nên quân không về được, ông chỉ còn cách cố gắng đốc binh chiếm thành. Đầu năm 1802, Tây Sơn mới chiếm lại thành Quy Nhơn, Võ Tánh tự vẫn để xin tha mạng binh sĩ. Trần Quang Diệu tha cho binh Nguyễn, an táng Võ Tánh và thuộc tướngrồi bỏ thành Quy Nhơn; cùng Vũ Văn Dũng mang quân cứu viện ra Nghệ An, bị quân Nguyễn chặn đường, phải vòng qua đường Vạn Tượng (Lào. Lúc tới Nghệ An thì thấy thành đã mất, quân sĩ bỏ chạy gần hết, vợ chồng Trần Quang Diệu và Bùi Thị Xuân bị bắtVũ Văn Dũng không rõ số phận
Cũng trong thời gian này, sau khi chiến thắng quân Tây Sơn, hoàn toàn chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế ngày 1 tháng 6 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1802. Để tượng trưng sự thống nhất Nam-Bắc lần đầu tiên sau nhiều năm, Nguyễn Ánh chọn niên hiệu là Gia Long, Gia lấy từ Gia Định và Long lấy từ Thăng Longđó ông cho người đem toàn bộ ấn sách nhà Thanh trao cho Tây Sơn trả lại và xin phong, rồi sai Lê Văn Duyệt kéo quân tiếp ra Bắc Hà diệt hoàn toàn nhà Tây Sơn
Trả thù Tây Sơn
§ Quang Tự, Quang Điện, Nguyễn Văn Trị rồi các con của Nguyễn Nhạc gồm Thanh, Hán, Dũng bị giết ngay sau khi bị bắt, 31 người có quan hệ huyết thống với Nguyễn Huệ đều bị xử lăng trì
§ Quang Toản và những người con khác của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là Quang Duy, Quang Thiệu và Quang Bàn bị 5 voi xé xác, đầu bị bỏ vào vò và giam trong ngục.
§ Nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái bị voi giày, chồng bà là Trần Quang Diệu do trước đó đã có lần tỏ ra khoan thứ cho quân Nguyễn nên xin được Nguyễn Ánh tha cho mẹ già 80 tuổi trước khi bị xử chết...
§ Lăng mộ nhà Tây Sơn như các lăng của vua Thái Đức và vua Quang Trung bị quật lên, hài cốt bị giã nát quăng điđầu ba vua Tây Sơn (Thái Đức, Quang Trung và Cảnh Thịnh) và bài vị vợ chồng Nguyễn Huệ thì bị giam trong ngục tối
§ Các quan văn khác của Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích ra hàng thì cho đánh đòn và được tha về (riêng Ngô Thì Nhậm thì bị Đặng Trần Thường trước có thù riêng nên cho người đánh chết).
Việc làm này của ông về sau bị sử sách nói nhiều đến mức độ thiên lệch cả về công và tội của Nguyễn Ánh. Theo phân tích của các sử gia, cuộc báo thù này có hai mục đích:
§ Trả thù cho những việc Tây Sơn làm với cho gia tộc và bản thân Nguyễn Ánh trước kia: phá lăng mộ các chúa Nguyễn, giết chết người thân và cả những đắng cay trong những ngày tháng lênh đênh trốn chạy
§ Dùng cuộc trả thù để tỏ rõ uy thế, làm khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần Lê-Trịnh) phải quy thuận trước vương triều mớiCó lẽ vì vậy, Nguyễn Ánh không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình trong việc này. Ông tuyên bố: "Trẫm vì chín đời mà trả thù" nhưng trong các đánh giá về sau về sự việc này, sử sách cho rằng Nguyễn Ánh thực hiện quá tay và "đôi lúc rất tiểu nhân"
Cai trị
Các cải cách mang xu hướng mớicủa nhà Tây Sơn bị Gia Long thay thế bằng kiểu cai trị và một nền giáo dục khắc nghiệt theo phong cách Nho giáo chính thống.Tổ chức chính quyền
Cuối đời Tây Sơn chính sự thối nát, phong tục hủy hoại nên việc cai trị rất khó khăn, Gia Long phải sắp đặt từ đầu, sửa sang phong tục
Ông đã xếp đặt lại cơ cấu điều hành quốc gia: Nội cung, không đặt hoàng hậu; quan lại, không đặt chức Tể tướng để tránh lộng quyền, tổ chức đại khái theo chế độ nhà Lê: tổ chức triều đình gồm có lục bộ là: Lại, Công, Lễ, Hộ, Binh, Hình do thượng thư (tương đương nhự bộ trưởng ngày nay) đứng đầu và tả hữu thị lang giúp việc sát viện do Tả, Hữu đô ngự sử đứng đầu với hoạt động can gián vua và đàn hặc các quan; ấn định quyền hạn các chức tước, lương bổng, văn võ theo các cấp bậc. Ông cũng cho thi hành chế độ tiền dưỡng liêm để phòng trừ tệ nạn tham nhũng trong hàng ngũ quan lại nhà Nguyễn.
Về mặt hành chính, Gia Long phân chia Việt Nam thành 2 tổng trấn: (Bắc Hà, Nam Hà), 2 vùng (miền Trung và Kinh kỳ).
Nhân ngày xuân, cùng nghe đôi chuyện về các báu vật là biểu tượng của quyền lực tuyệt đối của người đứng đầu thiên hạ - kim bảo, ngọc tỷ.

Kim sách (sách vàng), thời vua Gia Long năm 1806.
Kim bảo, ngọc tỷ
Trong thời quân chủ, kim bảo, ngọc tỷ là biểu tượng của quyền lực tuyệt đối của người đứng đầu thiên hạ, bởi vậy chúng không chỉ được làm bằng những chất liệu quý hiếm nhất mà còn là kết tinh tài năng, trí tuệ của những người thợ tài hoa nhất nước.
Theo các tài liệu lịch sử, trong 143 năm tồn tại, triều Nguyễn đã cho làm hơn 100 chiếc ấn báu; thường đúc bằng vàng bạc thì được gọi là kim bảo, chế tác từ ngọc quý thì được gọi là ngọc tỷ, nhưng về sau không phân biệt rõ. Trải qua bao sóng gió, dâu bể đến nay Việt Nam vẫn còn giữ được 93 chiếc (Bảo tàng Lịch sử Việt Nam có 85 chiếc, Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế có 8 chiếc).
Xung quanh các kim bảo, ngọc tỷ của vương triều Nguyễn có rất nhiều huyền thoại. Chiếc "Đại Việt quốc chúa vĩnh trấn chi ấn" do chúa Nguyễn Phúc Chu đúc từ năm 1709, từng bị lưu lạc bao lần vẫn về lại với họ Nguyễn và được xem là ấn truyền quốc của triều đại này.
Thời Thiệu Trị (1841-1847), người dân huyện Hòa Điền, Quảng Nam tình cờ tìm thấy một khối ngọc quý màu xanh cực lớn đã đem dâng lên nhà vua. Vua cho rằng đây là điềm lành và đã cho nghệ nhân chế tác thành một chiếc bảo tỷ, sau gần một năm mới hoàn thành. Đây chính là chiếc "Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ", là chiếc bảo tỷ bằng ngọc quý nhất của triều Nguyễn, làm năm 1844.
Nhưng đặc biệt nhất là chiếc "Hoàng đế chi bảo" do vua Minh Mạng đúc năm 1823. Đây là chiếc ấn vàng lớn nhất của nhà Nguyễn (nặng 280 lượng 9 đồng cân, tức hơn 10,5 kg) và cũng là biểu tượng quyền lực tối cao của hoàng đế. Ngày 30/8/1945, trong lễ thoái vị, hoàng đế Bảo Đại đã trao nó cùng một thanh kiếm cho phái đoàn đại diện của chính quyền nhân dân do ông Trần Huy Liệu dẫn đầu.
Thế nhưng sau khi đưa ra Hà Nội, do bất cẩn trong bảo quản nên ta lại để bộ ấn kiếm này rơi vào tay người Pháp. Năm 1949, chính quyền thực dân đã trao lại cho Bảo Đại từ Đà Lạt trong một nghi lễ rất hoành tráng. Về sau, hoàng hậu Nam Phương đã đem ấn kiếm sang Pháp, gửi tại Ngân hàng châu Âu. Đến nay, chiếc kim bảo vô giá này vẫn chưa quy trở lại Việt Nam.
Chiếc nghiên Tức mặc hầu
Đó là một trong những báu vật quý nhất của triều Nguyễn, một quốc bảo thực sự với bao huyền thoại bao phủ dằng dặc tưởng không bao giờ dứt. Cổ vật ấy đang lưu lạc ở phương trời nào, đến nay ít ai hay, chỉ biết rằng, cho đến trước khi nhắm mắt cụ Vương Hồng Sển - nhà sưu tầm cổ vật lừng danh của Việt Nam - vẫn day dứt, băn khoăn về nó và ước vọng có ngày cổ vật đó sẽ trở về với nơi nó đã từng ngự trị - Bảo tàng Cổ vật Huế, để dân Việt Nam lại được chiêm ngưỡng và tự hào về một tuyệt phẩm của cha ông.
Chuyện kể về Tức mặc hầu có thể tóm tắt như sau: Vua Tự Đức có một chiếc nghiên mài mực làm bằng đá Đoan Khê của Quảng Đông. Điểm độc đáo của chiếc nghiên là khi cần gấp mực để múa bút, nhà vua chỉ việc hà hơi lên mặt nghiên là sẽ có mực ngay. Chiếc nghiên "như ý" này được vua xem như một bảo bối, phong cho đến tước hầu (Tức mặc hầu). Nghiên được mài giũa công phu, mặt sau khảm nổi một bài thơ chữ Hán bằng vàng, nội dung ca ngợi chiếc nghiên.
Nghiên lại được đặt trong một chiếc hộp bằng đồi mồi quý, ngoài khảm chữ vàng và đóng ấn "Tự Đức kinh diên chi bảo" và "Văn tự chi tường" (điềm may của văn chương).
Cuối triều Nguyễn, chiếc nghiên báu được đưa vào cất giữ tại Bảo tàng cổ vật Huế (nay là Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế). Đến năm 1959 thì có người mang chiếc nghiên dâng cho Ngô Đình Diệm. Ông Diệm đã đặt nó tại dinh Gia Long. Rồi Tức mặc hầu đã không cánh mà bay khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ và bị giết chết trong cuộc đảo chính năm 1963...
Người đầu tiên viết về chiếc nghiên mực kỳ lạ này lại chính là Ngô Đình Diệm khi ông còn là một tay hành tẩu, hàm cửu phẩm thư lại ở Tân thư viện (thư viện của trường Quốc Tử Giám, Huế). Bài viết về Tức mặc hầu của họ Ngô đăng trên tập san của Hội người yêu Huế cổ (Bulletin des Amis du Vieux Hue - BAVH), năm 1917.
Thực ra đây chỉ là bản dịch tiếng Pháp của bài minh chữ Hán khắc ở mặt đáy chiếc nghiên. Tiếc thay, đây là một bản dịch rất dở vì nguyên tác là một bài thơ tuyệt khéo mà người dịch lại không biết đó là một bài thơ; hơn nữa, nội dung bản dịch lại quá nôm na đại khái với rất nhiều nhầm lẫn.
Tuy nhiên, theo cụ Vương Hồng Sển, ông Diệm là người rất đam mê chiếc nghiên này, nên khi lên tột đỉnh của quyền lực, ông ta đã biến nó thành của riêng. Và Tức mặc hầu cũng trở thành một phần trong cuộc đời bi kịch của ông ta. Giá trị của chiếc Tức mặc hầu như thế nào khó ai biết được, chỉ biết rằng, theo cụ Vương Hồng Sển, "có đổi cả núi vàng" cũng xứng vì đó là thứ có một không hai trên đời.
Tiếc lắm thay!
Báu vật của triều Nguyễn vốn có rất nhiều vì đây là triều đại được kế thừa di sản của các triều đại trước. Chỉ tiếc là qua bao dâu bể, chúng đã thất thoát, tản mát phần lớn. Hiểu biết giá trị của các báu vật ấy để tìm cách đưa chúng về kho tàng di sản của dân tộc ắt hẳn là công việc đòi hỏi trí tuệ, tâm sức của nhiều thế hệ người Việt nữa.


Ấn ngọc Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ.

Đại vàng cần ngọc, san hô, thế kỷ 19.

Mũ đại triều, thế kỷ 19 (mặt trước và mặt sau), phục chế.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét