Thứ Năm, 3 tháng 6, 2010

TẦN THỦY HOÀNG

                           
      Trị vì
221 TCN – 210 TCN
Kế nhiệmTần Nhị
ThếTên thậtDoanh Chính
Triều đạiNhà Tần
Thân phụTần Trang Tương vương / Lã Bất Vi (?)
Thân mẫu Triệu Cơ . Sinh 259 TCN
Mất210 TCN
Trung QuốcAn tángLăng mộ Tần Thủy Hoàng
Chuyện sử kể rằng:: Tần Thủy Hoàng (tiếng Trung Quốc: 秦始皇, 259 TCN – 210 TCN), tên là Doanh Chính, được xem là vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, cũng là vị Hoàng đế sáng lập ra nhà Tần. Ông có công tiêu diệt các nước chư hầu thời Chiến Quốc phân tán để thống nhất lập nên một đế quốc Trung Hoa rộng lớn. Tuy nhiên, ông cũng được xem là bạo chúa vì chính sách cai trị hà khắc và tàn bạo của mình. Tần Thủy Hoàng giữ ngôi từ năm 238 đến năm 210 trước Công nguyên; năm 246 TCN, lên ngôi, năm đó mới 13 tuổi và năm 238 TCN đích thân điều hành chính sự; ông dùng vũ lực thống nhất Trung Quốc và đã tiến hành một số cải cách có tính căn bản. Từ đó, các biện pháp cải cách này đã trở thành nhân tố quan trọng làm cho Trung Quốc giữ được sự thống nhất về mặt văn hóa.
Tần Thủy Hoàng là con trai của Trang Tương Vương nước Tần, mẹ là Triệu Cơ, vốn là một người thiếp của Lã Bất Vi - một thương nhân và sau trở thành Tướng quốc nước Tần. Ông sinh ra vào tháng giêngnăm 259 TCN, ở đô thành Hàm Đan của nước Triệu nên lúc nhỏ, ông họ Triệu tên Chính.
Sử sách, mà cụ thể là sử ký Tư Mã Thiên ghi lại rõ ràng như vậy. Nhưng chính Tư Mã Thiên cũng cho biết, có thuyết nói rằng Tần Thủy Hoàng là con của Lã Bất Vi.
Năm 265 TCN, vua Tần là Tần Chiêu Vương lâp con trai thứ là An Quốc quân Doanh Trụ làm Thái tử. Công tử Tử Sở là con trai giữa của Thái tử với một người vợ thứ, Hạ Cơ. Hạ Cơ không được An Quốc quân yêu mến, nên Tử Sở phải đi làm con tin của Tần ởnước TriệuTần nhiều lần đem quân đánh Triệu, làm Triệu thua to trong trận Trường Bình đẫm máu, nên nước Triệu càng bạc đãi Tử Sở. Sau ông có quen với Lã Bất Vi, một thương gia giàu có. Bằng mưu mô của mình, Lã Bất Vi đã dâng Triệu Cơ, vũ nữ và người thiếp của Lã đang mang thai, cho Tử Sở, lại giúp Tử Sở về Tần làm Thái tử rồi lên ngôi vua, thành Trang Tương Vương nước Tần. Cái thai trong bụng được Triệu Cơ giấu kín, để đủ tháng sinh ra, đặt tên là Chính, tức Tần Thủy Hoàng sau này thì Doanh Chính là con của Tử Sởchứ không phải là con của Lã Bất Vi. Thuyết này lập luận tập trung vào 2 điểm:
Một bộ phận lớn triều thần nước Tần vẫn tin vào việc Doanh Chính là con Tử Sở và vẫn hết lòng ủng hộ Doanh Chính trước sau như một. Do đó, chính quyền của Doanh Chính vẫn đứng vững trước cuộc binh biến do Phàn Ô Kỳ phát động nhằm dựng Thành Kiệu lên ngôi. Đại tướng Vương Tiễn đi dẹp cuộc binh biến này trả lời Phàn Ô Kỳ: “Thái hậu có mang mười tháng mới sinh, vậy nay tức là con tiên vương đẻ ra...” Ngay trong thời đó, những người theo thuyết gán Lã Bất Vi là cha Doanh Chính cũng không thể lý giải một cách khoa học vì sao Triệu Cơ lại mang thai Doanh Chính tới 12 tháng mà lập luận theo cách “thiên mệnh” rằng: “Có thể tại lòng trời muốn sinh ra một vị chân mạng thiên tử nên mới để người mẹ hoài thai lâu như vậy...”. Các nhà sử học lý giải rằng: Thực tế, Doanh Chính vẫn chỉ nằm trong bụng mẹ 10 tháng như những đứa trẻ khác kể từ khi Vu Cơ về với Tử Sở. Do cộng thêm thời gian Vu Cơ ở với Bất Vi, thời gian mới là 12 tháng.
Thuyết này là sản phẩm của sĩ phu các nước chư hầu Sơn Đông bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt. Họ căm hờn vì bị mất nước, nên nhân việc mẹ vua Tần từng là thiếp của Bất Vi để đặt ra chuyện này nhằm hạ thấp kẻ thù không đội trời chung của mình.
Thời thiếu niên lưu lạc
Hai năm ngay trước khi Tần Thủy Hoàng ra đời (262 TCN - 260 TCN), nước Tần và nước Triệu đánh nhau đẫm máu trong trận chiến Trường Bình, kết cục 450.000 quân Triệu đều bị thảm sát, Triệu đại bại. Vì vậy, Triệu đối xử với công tử Tử Sở hết sức khắc nghiệt, "xe ngựa, vật dụng dùng chẳng được sẵn, ở cảnh cùng khốn có vẻ bực bộ", dù ông đã nổi danh khắp chư hầu với tư cách là người kế thừa vương vị khi cha ông lên ngôi. Năm 257 TCN, Tần Chiêu Vương sai tướng Vương Ý vây đô thành Hàm Đan, Triệu cùng quẫn muốn giết Tử Sở, ông cùng Lã Bất Vi chạy thoát về với quân Tần, nhưng Triệu Cơ cùng Doanh Chính không kịp trốn theo, phải ở lại Triệu. Triệu muốn giết cả hai người nhưng Triệu Cơ là con nhà tai mắt ở Triệu, vì thế hai mẹ con đều sống. Họ lẩn trốn trong dân gian suốt 7 năm trời đằng đẵng (257 TCN - 250 TCN).
Năm 250 TCN, Tần Chiêu Vương chết, An Quốc quân lên ngôi, tức là Tần Hiếu Văn Vương, lập Tử Sở làm Thái tử, nước Triệu bèn đưa Triệu Cơ và Doanh Chính về Tần. Hiếu Văn Vương làm vua không lâu thì chết, Tử Sở kế thừa vương vị, tức là Tần Trang Tương Vương, phong Lã Bất Vi chức Thừa tướng, tước Văn Tín hầu. Năm 247 TCN, Trang Tương Vương mất sau ba năm trị vì, ngôi vua thuộc về Doanh Chính, khi ấy mới 13 tuổi.
Tần vương Chính
Củng cố quyền lực
Tần Vương đã lên ngôi, tôn là mẹ Triệu Cơ làm Thái hậu, phong Thừa tướng Lã Bất Vi làm Tướng quốc, gọi là "trọng phụ", coi như người cha thứ hai của mình.
Tướng quốc vốn là chồng cũ của thái hậu, thường ra vào cung cấm tư thông với bà ta. Tần Vương còn nhỏ nên không hay biết hoặc giả vờ không hay biết. Sau đó Lã Bất Vi cảm thấy lo sợ nhà vua nhỏ tuổi biết chuyện nên ngầm sai người tìm kiếm một nam nhân cường tráng, dương vật lớn là Lao Ái. Trước tiên dùng Lao Ái làm gia nhân rồi dâng Ái vào cung giả làm hoạn quan để "hầu hạ" thái hậu. Sau một thời gian thái hậu sợ Tần vương biết chuyện bèn dời Hàm Dương về cựu đô là Ung Thành sống cùng Lao Ái và sinh được 2 con trai.
Nhờ thái hậu, Lao Ái được phong làm Trường Tín hầu, cũng mưu xây dựng thế lực, mở phủ nuôi thực khách như Lã Bất Vi. Lao Ái mưu đồ cho con mình và thái hậu nối ngôi khi Tần vương Chính qua đời.
Năm 238 TCN, Tần vương Chính đã lớn. Ông phát giác ra vụ việc Lao Ái, bèn giết 3 họ Lao Ái và hai người con riêng của thái hậu. Vụ việc liên quan tới Lã Bất Vi, ông cách chức, lưu đày rồi sang năm 237 TCN hạ lệnh ép Lã Bất Vi tự sát.
Thôn tính sáu nước, thống nhất Trung Hoa
Vương Tiễn và Kinh Kha
Khi Tần vương Chính lên ngôi, nước Tần đã rất lớn mạnh, có ưu thế áp đảo so với 6 nước chư hầu còn lại. Đất Tần đã mở mang về phía đông rất rộng, lấy từ các nước lân cận nhưHàn, Triệu, Ngụy, Sở và nhà Chu (bị diệt năm 249 TCN). Các nước chư hầu Sơn Đông luôn bị đẩy vào thế chống đỡ, nhiều lần tổ chức liên minh chống Tần nhưng chỉ đạt được một số thắng lợi tạm thời, không ngăn cản được quân Tần đông tiến. Tần vương tiếp tục duy trì chính sách "thân xa đánh gần", giao hảo với nước Tề, uy hiếp lấn chiếm Tam Tấn và Sở. Nước Tề giữ quan hệ với Tần nên không ra quân cứu các chư hầu khác.
Tần vương Chính bên trong dùng Úy Liêu, Lý Tư bày mưu kế, bên ngoài dùng cha con Vương Tiễn, Vương Bí và Mông Ngao, Mông Vũ làm tướng đánh dẹp các nước.
Năm 230 TCN, Tần vương Chính dự định đi kinh lược đất Hàn. Nước Hàn trước đó bị Tần đánh bại nhiều lần, đã rất nhỏ yếu không còn khả năng kháng cự. Hàn vương An sợ hãi, vội thu hết sổ sách, địa đồ trong nước sang đầu hàng nộp đất. Tần vương chính thức thôn tính nước Hàn.
Sau khi diệt Hàn, Tần vương Chính điều quân đánh Triệu. Tướng Triệu là Lý Mục đẩy lui được quân Tần. Tần vương bèn dùng kế ly gián, sai người đút lót cho gian thần nước Triệu là Quách Khai, xui Khai gièm pha Lý Mục. Triệu U Mục vương nghe lời gièm, tin rằng Lý Mục có mưu phản, bèn giết chết Lý Mục. Tần vương Chính thúc quân đánh Triệu gấp. Năm 228 TCN, quân Tần phá vỡ kinh thành Hàm Đan, bắt sống Triệu vương Thiên. Anh Thiên là Triệu Gia chạy lên đất Đại phía bắc xưng vương.
Thái tử Đan nước Yên lo lắng nước Tần sẽ đánh tới nước Yên, bèn sai dũng sĩ Kinh Kha đi hành thích Tần vương Chính, trên danh nghĩa là dâng địa đồ đất Đốc Cương. Vụ hành thích không thành, Kinh Kha bị giết.
Tần vương Chính quay sang đánh Ngụy để hoàn tất chiến thuật diệt Tam Tấn đầu tiên trong 6 nước. Năm 225 TCN, quân Tần hùng mạnh tấn công Đại Lương, tháo nước sông vào thành. Ngụy vương Giả không chống nổi phải ra hàng.
Ngay trong năm 225 TCN, Tần vương Chính sai Lý Tín mang 20 vạn quân đánh Sở. Lý Tín bị tướng Sở là Hạng Yên đánh bại. Tần vương Chính bèn nghe theo lão tướng Vương Tiễn, tổng động viên 60 vạn quân giao cho Vương Tiễn ra mặt trận.
Vương Tiễn đánh Sở trong 2 năm, đánh bại Hạng Yên, bắt sống Sở vương Phụ Sô. Hạng Yên chạy thoát, lập vua Sở mới là Xương Bình quân lên ngôi. Vương Tiễn lại tấn công xuống phía nam, giết chết vua Sở và Hạng Yên, bình định nước Sở.
Chỉ còn 2 nước Tề phía đông và Yên phía bắc. Năm 222 TCN, Tần vương sai con Vương Tiễn là Vương Bí mang quân tấn công Yên. Yên vương Hỷ sợ hãi bỏ Kế thành chạy sang Bình Nhưỡng, rồi lừa bắt giết thái tử Đan, nộp đầu cho nước Tần để tạ tội với Tần vương Chính. Nhưng Tần vương Chính vẫn hạ lệnh tiến quân, phá vỡ thành Bình Nhưỡng, bắt sống Yên vương Hỷ.
Quân Tần nhân đó tiến sang đánh đất Đại. Đại vương Gia (anh Triệu vương Thiên) bị bắt bèn tự sát.
Còn lại nước Tề, vốn không quen việc chiến tranh suốt hơn 40 năm. Năm 221 TCN, Tần vương Chính lấy cớ Tề vương Kiến mang quân phòng thủ ở biên giới phía tây là hành động gây hấn, bèn sai Vương Bí mang quân từ nước Yên tiến thẳng xuống phía nam đánh úp kinh thành Lâm Tri. Tề vương Kiến không chống nổi, phải đầu hàng. Cả 6 nước hoàn toàn bị thôn tính.
Tần Thủy Hoàng Đế: Xưng hiệu
Sau khi đã thôn tính các chư hầu, Tần Vương Chính đề nghị các bầy tôi bàn về danh hiệu cho mình. Thừa tướng là Vương Quán, Ngự sử Đại phu Phùng Kiếp, Đình úy Lý Tư cho rằng cơ nghiệp của Tần vương Chính lớn hơn cả Ngũ Đế thời cổ; trong các vua cổ đại thì Thái Hoàng là cao quý nhất nên khuyên ông xưng là Thái Hoàng. Tần vương Chính quyết định bỏ chữ thái, lấy chữ hoàng, thêm chữ đế, của những vị đế thời thượng cổ hiệu gọi là Hoàng Đế.
Đồng thời, ông phê chuẩn các kiến nghị khác của bầy tôi, từ đó mệnh ban ra gọi là chế, lệnh ban ra gọi là chiếu, thiên tử tự xưng gọi là trẫm. Ông truy tôn vua cha Tần Trang Tương Vương là Thái thượng hoàng.
Vì là hoàng đế Trung Hoa đầu tiên nên ông xưng hiệu Thủy Hoàng Đế. Thủy Hoàng có nghĩa là “hoàng đế đầu tiên”, và ông muốn con cháu đời sau lấy danh hiệu: Nhị thế, Tam thế... cho đến vạn thế.
Hành chính
Tần Thủy Hoàng bắt vương tộc sáu nước mà ông đã chiếm, kể cả gia đình các đại thần của họ, phải dời đến Hàm Dương, kinh đô của Tần, để cho ông dễ kiểm soát họ. Triều đình đem phát mãi hết đất đai của họ.
Sau khi thống nhất Trung quốc, để tránh cục diện chư hầu cát cứ như đời Chu, lập tức thực hiện một loạt cải cách quan trọng, hủy bỏ chế độ cũ. Ông chia cả nước thành 36 quận huyện, quận thú, huyện lệnh do triều đình bổ nhiệm, có thể điều động bất cứ lúc nào. Quận là một quân khu lớn, nhất là ở những miền mới chiếm được. Vì muốn thống nhất quốc gia, Tần Thủy Hoàng chia mỗi quận thành nhiều huyện, có một quận thú coi về dân sự, và một quân uý coi về quân sự. Ở trên cùng, có một viên giám ngự sử chỉ chịu trách nhiệm với nhà vua, như vậy không một viên quan nào chuyên quyền được, không thể thành một ông chúa như thời trước khi thành lập nhà nước. Quan lại lớn nhỏ đều không truyền lại cho đời sau, mà là do Hoàng đế đích thân bổ nhiệm. Ông còn đưa các quý tộc cũ chuyển về thủ phủ Hàm Dương để tiện giám sát quản lý. Thời Tần Thủy Hoàng, 36 quận tương ứng với tỉnh ngày nay.
Tới năm 213 TCN, quan bác sĩ người Tề là Thuần Vu Việt nhắc lại đề nghị xin phong đất cho người tông tộc làm chư hầu, Thủy Hoàng theo ý kiến của Lý Tư bác đi.
Nông nghiệp
Tần Thủy Hoàng theo Pháp gia nên khuyến khích binh, nông; ghét công, thương. Muốn nắm hết mối lợi thương nghiệp, triều đình đày hết phú thương có những xưởng sản xuất sắt lại miền Thiểm Tây và miền Tứ Xuyên. Hai trăm ngàn gia đình phú thương, tiểu thương bị đày tại xứ Thục và miền An Dương (phía nam Lạc Dương ngày nay), hẳn là để làm ruộng.
Nông dân được ưu đãi. Đất không còn là sở hữu của nhà vua nữa, mà của người làm ruộng. Người chủ ruộng có quyển bán ruộng và ai cũng có quyền mua. Chế độ đó gọi là danh điền, tạo nên một giới địa chủ có những cơ sở rất lớn, dần dần thành một giai cấp có quyền hành tương tự như các chư hầu nhỏ thời trước.
Năm hay mười nhà họp nhau thành một liên gia, chịu chung trách nhiệm với nhau. Chế độ này được áp dụng ở Trung Hoa cho tới đầu đời nhà Hán. Tráng đinh nào cũng phải đi lính tới già. Gia đình nào có ba người đàn ông thì phải chia làm hai hộ. Hình luật tàn khắc nghiệt hơn thời trước nhiều.
Thống nhất văn tự, đo lường, tư tưởng
Đốt sách chôn nho
Tần Thủy Hoàng cai trị một cách cứng rắn, mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định, khắc bạc, không dùng nhân đức, ân nghĩa. Nước Tần cường thịnh là nhờ áp dụng chính sách của Pháp gia một cách triệt để.
Trước triều đại Tần, mỗi miền có một ngôn ngữ và chữ viết riêng. Một quan chức Tần đi cai trị một nước khác, không hiểu ngôn ngữ nước đó thì khó làm tròn nhiệm vụ. Vì vậy, tể tướng Lý Tư thực hiện việc thống nhất ngôn ngữ và văn tự, sau này thành thông dụng trong toàn cõi Trung Hoa.
Ông lại thống nhất các dụng cụ đo lường (cả nông cụ, cày bừa...), như vậy để dễ tính thuế và thu thuế. Thuế trả bằng lúa, phải dùng thuyền, xe chở đến các quận và kinh đô. Vì thế, cũng cần thống nhất khoảng cách giữa hai bánh xe (xe đồng quy), nếu không thì những xe quá lớn vào những đường nhỏ không được.
Quan trọng nhất là thống nhất tư tưởng. Về điểm này, những đại thần theo pháp gia (Lý Tư, Hàn Phi) chịu ảnh hưởng của Mặc Tử. Mặc Tử trước kia đã chủ trương “thượng đồng”, nghĩa là bắt dân phải tán đồng lẽ phải với người trên, phải cùng một quan niệm tốt xấu với người trên. Không ai được có chủ trương riêng khác với chính sách của triều đình. Tần Thủy Hoàng có ác cảm với nho sĩ, triết gia mở trường tư dạy đạo lý, chỉ trích chiến tranh và hình pháp tàn bạo. Thủy Hoàng chỉ muốn nhồi nặn dân chúng thành dễ bảo, có kỷ luật. Tư do tư tưởng, tự do ngôn luận là tội nặng nhất. Tứ thư và Ngũ kinh của đạo nho bị xem là phản động vì khiến dân nhớ tiếc trật tự cũ của chế độ phong kiến.
Năm 213 TCN, Tần Thủy Hoàng theo ý kiến của Lý Tư, cho rằng nên áp dụng chính sách ngu dân nhằm loại trừ những lời bàn luận, chê bai chính quyền làm giảm uy thế của vua. Thủy Hoàng ra lệnh đốt sách và chôn nho: đốt hết các bản Tứ thư, Ngũ kinh và bách gia chư tử trong dân gian, chỉ giữ lại một bản tàng trữ trong thư viện của triều đình. Các bộ sử của lục quốc cũng phải đốt hêt, chỉ được giữ những sách về kỹ thuật, như sách thuốc, sách trồng trọt, sách bói... Kẻ nào không tuân lệnh mà lén lút giữ thì bị trị tội.
Con cả của Thủy Hoàng là công tử Phù Tô can ông không nên thi hành lệnh này vì sợ thiên hạ không yên. Tần Thủy Hoàng nổi giận sai Phù Tô đi lên miền bắc để giám sát tướng Mông Điềm ở Thượng Quận.
Số nhà nho bị chôn sống ở Hàm Dương là 460 người. Sau mỗi ngày một đông, đều bị đày ra ngoài biên giới. Các trường tư bị dẹp hết. Dân muốn học thì phải học các quan (bác sĩ) của triều đình, mà chỉ được dạy cho mỗi môn là pháp luật của quốc gia.
Vì lệnh này, có người phải giấu sách vào trong tưởng, có người lại ráng học thuộc lòng thư và kinh để truyền miệng lại đời sau. Năm chục năm sau (đời Hán), lệnh phần thư đó mới bãi bỏ, không ai có thể nhớ đúng Tứ thư, Ngũ kinh cả. Còn bản cất trong thư viện triều đình thì đã bị đốt cùng với Hàm Dương trong cuộc cách mạng của nông dân cuối đời Tần. Do đó mà sách đời Tiên Tần mất rất nhiều, cuốn nào còn lại thì cũng bị thêm bớt, sửa chữa, khó tin được là chính xác; lại thêm nạn nguỵ thư: người đời sau viết mà mượn tên người đời trước, để cho tác phẩm của mình có giá trị, như bộ Quản Tử chẳng hạn.
Xây dựng hạ tầng cơ sở
Tần Thủy Hoàng giao hết việc trị nước cho Lý Tư, mà dành thì giờ đi kinh lý các miền, xây đường sá, tổ chức các trạm và xây cung điện.
Những đường từ kinh đô Hàm Dương đi bốn phương đều rộng, thẳng băng, có ba lối cho xe chạy, trồng cây hai bên lề, muốn vậy phải san núi, lấp thung lũng, tốn rất nhiều nhân công. Đường đó chỉ để cho vua và quan lớn đi, còn dân chúng thì phải dùng đường mòn ở hai bên.
Khi chiếm được kinh đô một nước chư hầu nào, Thủy Hoàng sai người vẽ kiểu cung điện của nước đó để về xây dựng lại y hệt tại Hàm Dương, ở bên cung điện của ông, thành một dãy dài cả mấy dặm. Bao nhiêu đồng trong thiên hạ gom cả về để đúc những tượng nặng 24.000 cân bày trong cung đình.
Ngoài ra, ở gần kinh đô, ông còn xây một cung để nghỉ mát mùa hè, cung A Phòng, trên bờ sông Vị. Phải dùng 70 vạn tù nhân để cất, chở đá từ các núi phương bắc xuống, chở gỗ từ các rừng phương nam lên.
Trong bán kính trên trăm cây số chung quanh kinh đô, còn xây thêm 270 cung điện. Bao nhiêu châu báu, nhạc công và vũ nữ của lục quốc, Tần Thủy Hoàng gom cả về đó để làm vui tai mắt cho ông. Tương truyền cuối đời Tần, kinh đô bị chiếm và đốt, ba tháng sau ngọn lửa mới tắt.
Công trình kiến trúc lớn nhất, tới nay vẫn còn dấu vết là Vạn Lý Trường Thành. Sự thực nhiều khúc thành đã được các nước Yên, Triệu, Nguỵ xây từ thời trước, nay Tần Thủy Hoàng chỉ cho nối lại, kéo dài, củng cố thêm, để thành một thành duy nhất dải cả ngàn cây số. Ba trăm ngàn chiến sĩ với một số đông tội nhân, quan lại phạm lỗi, nho sĩ không tuân lệnh đốt sách... phải làm khổ sai trong miền rừng núi, mùa đông thì lạnh buốt, nước đóng băng, mùa hè thì không khí nóng như nung, mù mịt cát bụi. Trên thành cất những đồn canh, và có đường rộng chạy ngựa được giữa các đồn với nhau.
Nhưng trong dân gian còn truyền lại nỗi khổ của nàng Mạnh Khương, thương nhớ chồng, đi mười ngàn dặm đường để thăm chồng bị bắt đi xây thành, đến nơi thì chồng nàng đã chết rồi. Chung quanh chỉ là rừng núi và đá. Không biết kiếm xác chồng ở đâu, nàng tuyệt vọng, khóc mấy ngày mấy đêm, khóc tới nỗi chính cái thành cũng phải mủi lòng. Nàng khóc làm đổ cả một đoạn thành. Thành xây xong, giúp cho Trung Hoa ngăn được các bộ tộc xâm lăng trong một thời gian, chứ làm sao ngăn cản được một cách vĩnh viễn. Hễ Trung Hoa suy, các bộ tộc du mục thịnh lên thì họ lại vượt qua được trường thành, vào chiếm các cánh đồng phì nhiêu của Trung Hoa.
Mở mang cương thổ
 Mông Điềm và Triệu Đà
Mới hoàn thành sự thống nhất Trung Quốc, chưa kịp củng cố ở trong, Thủy Hoàng đã nghĩ đến việc mở mang bờ cõi ra nước ngoài.
Các dân tộc du mục miền bắc gọi chung là Hung Nô vẫn là mối lo từ đời Thương, Chu. họ thường xâm lấn biên giới, có chỗ sống lẫn lộn với người Trung Hoa. Đầu đời Tần họ đã len lỏi vào Hà Nam, Tần Thủy Hoàng vội chặn họ lại, sai Mông Điềm làm chánh tướng cầm quân, cùng với con Vương Bí, cháu Vương Tiễn là Vương Ly làm phó tướng, đưa quân đánh dẹp và trấn thủ biên giới phía bắc.
Trong thời gian hơn một năm, Mông Điềm đã chỉ huy quân Tần đánh lui quân Hung Nô ở phía bắc, giành được thắng lợi. Quân Hung Nô bị đánh đuổi từ Du Trung dọc theo sông Hoàng Hà đi về đông đến Âm Sơn tất cả 31 huyện, xây thành trên sông Hoàng Hà để làm giới hạn. Lại sai Mông Điềm vượt sông Hoàng Hà lấy đất Cao Khuyết, Đào Sơn, Bắc Giả, xây đình và thành lũy ở đấy để đuổi người Nhung và đưa những người bị đày đến đấy để ở và lần đầu những nơi này trở thành huyện.
Mông Điềm đánh bại Hung Nô, trấn thủ Thượng Quận (nay là phía đông nam huyện Du Lâm – Thiểm Tây), bắt đầu việc cai trị biên giới. Trong quá trình chinh phạt, Mông Điềm trước sau chú trọng khai phá vùng biên ải, lấy các vùng đất mới làm thành “Tân Tần Địa”, chia thành 44 huyện, cắt đặt quan lại.
Mông Điềm chiêu tập nam đinh trong nước đi xây dựng các tuyến phòng thủ ở những nơi hiểm yếu dọc theo biên giới. Trong vài năm, ở biên giới phía bắc Hàm Dương đã xây dựng được ba tuyến phòng ngự.
Tuyến thứ nhất nằm ở Bắc sông Hoàng Hà, giữa núi Âm Sơn và Dương Sơn.
Tuyến thứ hai là phía tây, quận Cửu Nguyên, nằm dọc theo phía tây dãy Âm Sơn nối với Trường Thành ở nước Triệu.
Tuyến thứ ba chính là Trường Thành có từ thời Tần được điều chỉnh lại.
Trên cơ sở đó, Mông Điềm còn huy động sức dân trong nước xây dựng Trường Thành dọc theo biên giới phía đông. Lúc bây giờ, ở biên giới phía bắc nước Tần, ngoài Trường Thành của nước Tần còn có Trường Thành của nước Triệu và nước Yên còn lại từ thời Chiến Quốc. Phía tây Trường Thành bắt nguồn từ Lâm Thao  Phía đông trải dài tới tận Liêu Đông, dài hơn vạn dặm. Đây chính là Vạn Lý Trường Thành nổi tịếng thế giới ngày nay.
Tần Thủy Hoàng còn sai Đồ Thư đi đánh lấy Bách Việt, tức các tỉnh Chiết Giang, Quảng Đông, Quảng Tây, và một phần miền Bắc của Việt Nam, thời đó gọi là Âu Lạc của An Dương Vương.
Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng sai Triệu Đà đưa những người thường trốn tránh, người ở rể và người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ.
Năm 213 TCN, Thủy Hoàng lại đem đày những quan coi ngục không thanh liêm đi xây Trường Thành và đi thú ở đất Nam Việt.
Có thể coi Tần Thủy Hoàng đã lập được một đế quốc lớn vào bậc nhất thế giới thời đó, và người phương Tây, do những thương nhân chở lụa sang bán, đã biết danh nhà Tần, gọi Trung Hoa là nước Tần.
Chỉ trong mười mấy năm Thủy Hoàng thực hiện được bấy nhiêu công trình về nội trị, tổ chức hành chính, thống nhất ngôn ngữ, văn tự v.v..., xây cất, đắp đường, mở mang cương vực, được nhiều sử gia coi là vĩ đại.

Tần Thủy Hoàng muốn trường sinh bất lão, nghe theo lời Hầu Sinh và Lư Sinh muốn tu tiên, bèn tự xưng là chân nhân. Lại nghe lời Từ Phúc nói rằng có thể tìm thuốc trường sinh, ông bèn cấp kinh phí cho Từ Phúc ra biển tìm thuốc, nhưng Từ Phúc đi mấy năm không thấy trở về. Ít lâu sau Lư Sinh và Hầu Sinh lại bất bình vì sự hà khắc của Thùy Hoàng nên cùng nhau bỏ trốn.
Năm 211 trước Công nguyên, Thủy Hoàng đi kinh lý phía đông, Tả Thừa tướng Lý Tư đi theo, Hữu Thừa tướng Khứ Tật ở nhà. Hồ Hợi, con nhỏ của Thủy Hoàng, được nhà vua yêu mến xin đi theo, vua bằng lòng.Sau khi tế vua Hạ Vũ ở Cối Kê, Tần Thuỷ Hoàng trở về kinh. Trên đường trở về phía tây đến bến Bình Nguyên thì bị bệnh.
Thủy Hoàng ghét người ta nói đến việc chết, cho nên quần thần không ai dám nói với nhà vua về việc chuẩn bị cho việc ông qua đời. Khi bệnh càng nặng, nhà vua viết thư đóng dấu của vua gửi đến công tử Phù Tô nói: “Con về Hàm Dương với đám tang, và chôn cất ta ở đấy.” Bức thư đã niêm phong ở trong phủ trung xa thuộc quyền Triệu Cao. Bức thư có dấu của nhà vua làm tin chưa giao cho sứ giả, thì Thủy Hoàng qua đời ở Bình Đài, thuộc đất Sa Khâu.
Thừa tướng Lý Tư thấy nhà vua mất ở xa kinh đô, sợ các công tử và thiên hạ có biến loạn, bèn giấu kín điều đó, không báo tang, chở quan tài trong một cỗ xe mát, cho một hoạn quan được vua yêu ngồi trong xe, đến đâu thì dâng thức ăn, trăm quan vẫn tâu việc như thường. Viên hoạn quan ở trong xe nghe lời tâu, liền bảo: “Được!” Chỉ có Hồ Hợi, Triệu Cao và một vài hoạn quan thân tín của nhà vua, tất cả có năm sáu người biết là nhà vua đã chết.
Triệu Cao trước đây đã có lần dạy Hồ Hợi học viết cùng với pháp luật, mệnh lệnh. Hồ Hợi yêu quý Triệu Cao. Triệu Cao bèn cùng công tử Hồ Hợi và Thừa tướng Lý Tư âm mưu phá hủy bức thư của Thủy Hoàng gửi cho công tử Phù Tô, mà bịa đặt thành ra chuyện Lý Tư đã nhận được tờ chiếu của Thủy Hoàng ở Sa Khâu, trước khi chết bảo lập Hồ Hợi làm thái tử. Lại làm một bức thư khác gửi cho công tử Phù Tô, vàMông Điềm kể tội hai người, ra lệnh cho hai người phải chết. Xe đi từ Tỉnh Hình đến Cửu Nguyên. Gặp lúc trời nắng, chiếc xe mát phát ra mùi thối, đòng tùy tùng sai các quan đi theo chở trên xe một thạch cá muối để đánh lẫn mùi thối. Đi theo đường thẳng đến Hàm Dương mới báo tang.
An táng:  Lăng mộ Tần Thủy Hoàng
Thủy Hoàng được an táng trong một ngôi mộ đã xây sẵn ở Ly Sơn. Trong mộ chứa rất nhiều châu báu, có một bản đồ của một trăm con sông, trên đó sông Hoàng Hà, sông Dương Tửvà biển Đông đều bằng thủy ngân. Hầm mộ ngày đêm đều thắp đèn đốt bằng dầu cá, một loại cá đặc biệt giống hình người. Quan tài hạ rồi, người ta nấu đồng để gắn phần mộ và đặt một cái máy để hễ có kẻ nào lén vào đào mả thì sẽ bị những mũi tên từ mọi chỗ phát ra tự động bắn vào. Tương truyền lăng đó do 70 vạn người xây cất trong nhiều năm.
Tần Thủy Hoàng qua đời rồi, thừa tướng Lý Tư và hoạn quan Triệu Cao làm di chiếu giả, không lập thái tử Phù Tô mà lập thứ tử Hồ Hợi lên ngôi, tức Nhị Thế Hoàng Đế (Hoàng đế đời thứ nhì).
Nhận định: Có những quan điểm cho rằng Tần Thủy Hoàng là một bạo chúa. Trong gần 40 năm ngồi trên ngai vàng, ông có nhiều hành động được cho là tội ác, đó là: Xây Vạn Lý Trường Thành, xây cung Lương Sơn , xây cung A Phong (hay A Phòng), đốt sách, hãm hại Nho giáo, chôn học trò và xây lăng mộ cho riêng mình.
Sự nghiệp của Tần Thủy Hoàng không thể tách rời Thừa tướng Lý Tư. Trên thực tế, vai trò của Lý Tư rất lớn, lớn đến mức rất khó có thể tách rời sự nghiệp của hai người riêng rẽ. Nhiều nhà nghiên cứu vẫn coi là công lao chủ yếu của Tần Thủy Hoàng, vì nếu không có ông, những đề xuất của Thừa tướng Lý Tư sẽ không thể thực hiện được.
Có ý kiến cho rằng Tần Thủy Hoàng có tư cách tầm thường, lại còn hung bạo, quá khắc nghiệt. Các sử gia Trung Hoa vì chịu ảnh hưởng của đạo Khổng nên có ý phê phán ông, nhất là việc ngược đãi nho sĩ, đốt sách...
Các nhà Nho gia luôn phê phán Tần thủy Hoàng là một bạo quân tàn ác, đầy ác ý, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, các sử gia phương Tây nhìn nhận ông là một trong những nhân vật ngoại hạng trong mọi thời đại. Ông chỉ cầm quyền chưa đầy mười lăm năm mà làm cho nước Trung Hoa thay đổi hẳn, thống nhất về mọi mặt, mở mang thêm bờ cõi, thành một đế quốc lớn thời thượng cổ. Đó là một thành tựu được kể là vượt bậc. Ngày nay cái tên “China” hay “Sino” mà người phương Tây dùng để gọi Trung Quốc đều xuất phát từ phiên âm chữ “Tần” (Sin) mà ra. Nhiều nhà sử học nhắc tới Tần Thủy Hoàng song song với Napoleon.
Điều hiển nhiên là dân chúng dưới đời Tần Thủy Hoàng chịu nhiều cực khổ, dù làm sai bị xử án nhưng vẫn không tâm phục khẩu phục. Dân Tần phát triển kém hơn sáu nước mà họ đã chinh phục, nên họ còn có thể chịu được sự thiếu thốn, lao khổ vì họ quen rồi. Dân sáu nước văn minh hơn, rất uất hận dưới ách của Tần mà họ coi như mọi rợ, chỉ chờ cơ hội để nổi dậy. Đó là một nguyên nhân khiến Tần rất mau suy vong.
Dù sao, triều đại Tần Thủy Hoàng Đế là một khúc ngoặt cực kỳ quan trọng trong lịch sử Trung Hoa. Hiện giờ các sử gia của Trung Quốc có nhận định khách quan về ông hơn là các sử gia xưa
Chuyện kể:Lăng mộ của Tần Thủy Hoàng nằm ở phía Bắc núi Ly Sơn (骊山) thuộc địa phận tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc), cách Tây An 50 km về phía Đông.
Bên trên mộ bao bọc bởi một lớp đất đắp nổi cao 76 m, từ Nam đến Bắc dài 350 m, từ Tây sang Đông rộng 354 m. Trên mặt đất chung quanh lăng còn có hai lớp tường thành, diện tích thành bên ngoài là 2 km² có cửa. Giữa hai lớp thành có các giác lâu, cung tẩm, chùa chiền, nhà ở... Bên dưới mặt đất là địa cung hình chữ nhật, dài 460 m từ Nam sang Bắc, rộng 392 m từ Tây sang Đông, bốn phía có tường bao bọc. Tường bao cao 27 m, dày 4 m, bốn phía đều có cửa. Tổng diện tích địa cung là 18 vạn m².
Từ trên xuống dưới có ba tầng: trên cùng là ngoại cung, tiếp theo là nội cung và sau cùng là tẩm cung. Diện tích tẩm cung khoảng 2 vạn m². Trong tẩm cung phát hiện nồng độ thủy ngân cao hơn mức bình thường 280 lần. Ngoài địa cung, gần khu vực có lớp đất bao bọc bên trên phát hiện thấy 300 đường hầm bồi táng (chôn kèm theo xác) với trên 5 vạn cổ vật quan trọng. Bộ Sử kí của sử gia thời Tây Hán - Tư Mã Thiên - thuật lại việc xây lăng mộ Tần Thủy Hoàng như sau: "Khi Thủy Hoàng mới lên ngôi đã sai đào núi Ly Sơn. Đến khi thôn tính được thiên hạ thì dời 70 vạn người trong thiên hạ đến xây lăng mộ, đào ba con suối, ở dưới đổ đồng và đưa quách vào. Đem những đồ quý báu của các cung, của trăm quan xuống cất đầy ở dưới. Lại sai thợ làm máy bắn tên hễ có ai đào đến gần thì bắn ra. Sai lấy thủy ngân làm một trăm con sông, Trường Giang, Hoàng Hà và biển lớn. Các máy móc làm cho nước sông và biển chảy vào nhau. Ở trên có đủ thiên văn, ở dưới có đủ địa lý, lấy đầu cá nhân ngư để thắp đuốc, trù tính thế nào để cháy lâu không tắt."
Sau khi chôn cất xong, có người nói: "Những người thợ làm máy và cất giấu đều biết chỗ cất giấu, thế nào họ cũng tiết lộ việc lớn". Cho nên sau khi cất giấu xong, Tần Nhị Thế (con trai Tần Thủy Hoàng) sai đóng đường hầm đi đến huyệt và cửa ngoài hầm. Những người thợ và người cất giấu không làm sao thoát ra được. Rồi sai trồng cây, trồng cỏ lên trên ngụy trang thành cái núi.
Năm 1974, một phần hầm mộ được khai quật. Đầu tiên là đường hầm Binh mã dũng số 1. Các nhà khảo cổ ước lượng có đến 8000 tượng đất sét gồm có quan văn, quan võ, binh lính và ngựa. Năm 1994 tiếp tục khai quật đường hầm số 2. Đây được coi là "tinh hoa trong tinh hoa" của Binh mã dũng, chứa đựng trận thế kị binh và các cung thủ với các tư thế bắn tạo hình phong phú, tính nghệ thuật cao.
Tuy nhiên việc khai quật lăng mộ gặp rất nhiều khó khăn: vượt qua lớp thủy ngân bao bọc (nồng độ cực kỳ lớn), phải di chuyển một khối lượng đất khổng lồ, mực nước ngầm dưới lòng đất khá cao. Quan trọng nhất là việc bảo quản các văn vật được đào lên. Các tượng binh mã khi vừa đào lên thì có màu sắc riêng biệt, sau thời gian đều bị phai nhạt hết. Vì vậy bảo quản bằng phương pháp "đông khô" để tránh nứt, vỡ, phai màu. Hiện vật đào lên được đưa ngay vào hầm lạnh -40 độ C để tạo lớp băng mỏng bao bọc, sau đó bảo quản lâu dài trong kho chứa. Trước khi khai quật không quên dựng một nhà bảo quản khổng lồ bao toàn bộ khu lăng mộ
Trong các hoàng đế Trung Quốc không có ai quan trọng hơn Tần Thủy Hoàng, cũng không có hoàng đế nào gây nên nhiều tranh luận như vị hoàng đế đầu tiên này. Các học giả, sử gia và chính luận gia đời sau bình luận về Tần Thủy Hoàng rất khác nhau. Có người cho rằng Tần Thủy Hoàng là một anh hùng bởi vì ông ta đã đặt nền tảng vững chắc cho truyền thống thống nhất lâu dài của nền chính trị Trung Quốc. Nhưng đại đa số lại coi Tần Thủy Hoàng là một bạo chúa. Tội trạng được người ta đưa ra để minh chứng cho sự tàn bạo của Tần Thủy Hoàng thì rất nhiều nhưng chung quy chính là nền “bạo chính” (chính trị hà khắc tàn bạo). Nhưng sự thực có phải như vậy không? Phía sau những tội danh này còn có rất nhiều câu chuyện bị bỏ quên hoặc cố tình lảng tránh. Ở đây, chúng tôi sẽ xem xét lại những “tội trạng” chủ yếu của Tần Thủy Hoàng để thấy rằng, lịch sử đã có không ít những ngộ nhận đối với vị Thủy Hoàng đế này.
1. Tội trạng lớn nhất về mặt chính trị: Vứt bỏ đạo của tiên vương?
Một trong những tội trạng lớn nhất của Tần Thủy Hoàng là “phế bỏ đạo của tiên vương”. Đây là “tội danh” bị phê phán gay gắt nhất về mặt chính trị của Tần Thủy Hoàng. Từ đó dẫn tới một loạt các hành vi thay đổi pháp chế của tiên vương, làm loạn nền chính trị do các bậc tiên vương sáng tạo đều trở thành biểu hiện của việc phế bỏ “đạo của tiên vương”. Các nhà chính luận đời Hán mỗi khi phê phán Tần Thủy Hoàng đều lấy tội danh “phế bỏ đạo của tiên vương” làm tội danh đâu tiên sau đó mới liệt kê các chính sách bạo tàn của Tần Thủy Hoàng như một hệ quả của việc “phá bỏ đạo của tiên vương”.
Tần Thủy Hoàng “bỏ lòng nhân từ mà nặng hình phạt, phá các thành nổi tiếng, giết hại hào kiệt, nung chảy giáp binh, chặt gãy binh khí. Sau đó nhân dân dùng cày cuốc, gậy gộc mà nổi loạn, người phạm pháp rất đông, bọn trộm cắp cũng nổi lên đến nỗi, xác trẻ đầy đường, giặc giã đầy núi, binh lính chạy loạn”. Lục Giả, Giả Nghị, Đổng Trọng Thư đều có những lời ngôn luận đại loại như vậy. Các nhà Nho đời Hán đặc biệt nhấn mạnh tội danh “phế bỏ đạo của các bậc vua trước” ở Tần Thủy Hoàng. Họ không chỉ muốn phê phán Tần Thủy Hoàng mà còn muốn đánh gục hình tượng của các nhà Pháp gia nhưng ngôn từ sử dụng càng kịch liệt lại càng thiếu đi sự phân tích thấu đáo.
“Đạo của các bậc tiên vương” trong câu “Phế bỏ đạo của các bậc tiên vương” chính là để chỉ hình thái ý thức cũng như chế độ kinh tế chính trị của thời Tây Chu. Đó là chủ trương “thiên hạ không thay đổi, đạo cũng không thay đổi” trong cách nhìn của Nho giáo. Tần Thủy Hoàng đã cả gan thảy đổi cả thứ mà đến “thần thánh cũng không thể xâm phạm”, đương nhiên ông ta phải lãnh tội danh đại ác. Trên thực tế, bắt đầu từ thời Xuân Thu Chiến Quốc sự tiến bộ và phát triển của năng lực sản xuất xã hội đã quyết định sự sụp đổ tất yếu không thể nào cứu vãn của “đạo tiên vương” thời Tây Chu. Trong khi đó nền móng kinh tế cũng như thượng tầng kiến trúc của chế độ chuyên chế lại ngày càng hưng thịnh. Vai trò của Tần Thủy Hoàng chính là ông ta đã khiến cho cái tất yếu sẽ tan vỡ bị tan vỡ một cách nhanh chóng hơn, khiến cái chắc chắn sẽ hưng thịnh nhanh chóng trưởng thành hơn. Như thế đâu phải là tội?
Hơn nữa chế độ chuyên chế mà Tần Thủy Hoàng sáng lập nên cũng thuộc chủ nghĩa chuyên chế tập quyền trung ương, ở vào thời kỳ đó, kiến lập nên một đế chế, một đại đế quốc dưới sự thống trị của một đế chế là xu hướng chung của diễn biến lịch sử trên các châu lục Á Âu. Xu hướng này có sự hợp lý mang tính tất yếu khách quan của nó. Bởi vì kiến lập nên một đế chế cũng là một trong những tiêu chí mang tính lịch sử của quá trình phát triển của văn minh nhân loại. Vào thời kỳ đó, trình độ quy phạm hóa, chế độ hóa, pháp chế hóa của nền chính trị triều đại nhà Tần đã đạt đến mức độ rất cao và vì thế cũng đạt được hiệu quả nhất. Chúng đã truyền thêm sức sống cho nền văn minh cổ đại Trung Hoa, kiến lập nên một nền móng vững chắc của một thời kỳ phồn thịnh của nó.
Những nhà bình luận dưới triều đại nhà Hán khi phê phán “Tần Thủy Hoàng đã phá bỏ đạo của các tiên vương” đã hoàn toàn không đề cập đến vấn đề chính là nhà Hán đã kế thừa chế độ của triều Tần. Sự cường thịnh của nhà Hán sau đó so với nền chính trị của nhà Tần là không khác nhau. Nếu như nói Tần Thủy Hoàng “phá bỏ đạo của các bậc tiên vương” chẳng phải là các nhà bình luận của nhà Hán đã lấy đá tự đập vào chân mình hay sao?
Chế độ của nhà Tần có tính ưu việt của nó. Trong Tần Thủy Hoàng bản kỷ sách Sử ký phần nói về việc xây dựng các chế độ rất phong phú. Tư Mã Thiên đã đề cập đến các chế độ chính trị, đẳng cấp, kinh tế, quân sự, văn hóa, pháp luật,… rất hoàn bị dưới triều Tần. Tần Thủy Hoàng đã tổng kết những bài học kinh nghiệm trong lịch sử, lấy chế độ của Tần làm cốt lõi, góp nhặt những tinh hoa trong chế độ của sáu nước để bổ sung, cải biến là thể hiện tính sáng tạo. Do đó chế độ chính trị của nhà Tần là thành quả trọng yếu nhất của việc đổi mới chế độ, nó không chỉ là xây dựng dần dần những phương diện cụ thể của chế độ mà là các phương diện phối hợp hỗ trợ nhau cấu thành nên một hệ thống hoàn chỉnh.
Thành quả của công việc định chế độ, ban hành pháp luật của Tần Thủy Hoàng là thành quả cao nhất có thể đạt được dưới những điều kiện lịch sử đương thời. Ông đã hiện thực hóa một cách toàn diện lý luận về nhà nước và pháp luật đầu tiên trong lịch sử thế giới. Chế độ nhà Tần do ba loại chế độ cơ bản cấu thành nên là chế độ quan lại, chế độ quận huyện và chế độ đẳng cấp. Ba chế độ này hỗ trợ và bổ sung cho nhau đồng thời hỗ trợ các chế độ pháp luật, văn hóa, xã hội và kinh tế. Có thể nói là gần đạt đến sự hoàn mỹ ở thời điểm đương thời. Chế độ nhà Tần do đó có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sau. Ví dụ như chế độ quận huyện vẫn còn được lưu giữ cho mãi đến ngày nay.
Do vậy, phê phán Tần Thủy Hoàng “vứt bỏ đạo của các tiên vương” là đã không căn cứ trên tính lịch sử của vấn đề, càng không hiểu một cách thấu đáo tính tất yếu khách quan của sự phát triển. Phải nói rằng, việc “vứt bỏ đạo của các tiên vương” của Tần Thủy Hoàng không những không phải là tội mà ngược lại là công lao lớn của vị vua này trong việc thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
2. “Đốt sách chôn nho”: Tần Thủy Hoàng là ông vua tàn bạo nhất?
Một tội danh rất lớn nữa của Tần Thủy Hoàng mà người sau ai cũng biết đến: “phần thư khanh nho” (đốt sách chôn nho). Đốt sách chôn nho bao gồm hai sự kiện, một là đốt sách của trăm nhà và hai là giết các thuật sĩ. Việc này bị muôn đời sau nguyền rủa.... Người đời xem đây là sự vô đạo của Tần Thủy Hoàng.
Đốt sách là kết quả của sự đan dệt giữa chuyên chế và kiến thiết văn hóa của vương triều Tần. Còn sự kiện “chôn nho” nói một cách chính xác phải được hiểu đúng nghĩa là “chôn thuật sĩ”. Chôn thuật sĩ là cách xử trí của một hoàng đế đối với những bề tôi không trung thành. 
Trong bản kỷ sách Sử ký có ghi chép: Tần Thủy Hoàng năm 34… Thủy Hoàng bày rượu ở cung Hàm Dương, bảy mươi vị tiến sĩ chúc thọ. Ở đây nói đến thời gian xảy ra sự kiện “đốt sách”. Sau đó chép đến đoạn “thần yêu cầu các sách sử không phải ghi chép sử nhà Tần thì sẽ thiêu đi. Ngoài các chức quan xuất thân tiến sĩ, trong thiên hạ ai cất giữ Kinh Thi, kinh Thư, những sách của trăm nhà, đều phải đem đốt hết. Nếu có người dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chặt đầu ở chợ, lấy xưa chê nay giết cả họ. Quan lại biết mà không báo cũng bị coi là đồng phạm. Lệnh trong ba mươi ngày không đốt sẽ bắt làm phu phục dịch xây dựng trường thành. Những sách không bỏ đi là những sách y dược bói toán. Nếu muốn học pháp lệnh, lấy quan làm thầy”. Chế ước: “có thể”.
Có đọan truyền, Tần Thủy Hoàng chủ yếu dựa trên ý kiến của Lý Tư, đồng thời ban bố lệnh đốt sách, tức là “sách sử không ghi chép về sử nhà Tần đều đem đốt đi”, trong dân gian cũng nghiêm cấm lưu giữ những loại sách ngoài sách “bói toán y dược”. Tần Thủy Hoàng còn quyết định rất rõ: Phàm học thuật, kể cả chính thuật đều muốn quan chức làm thầy dạy, đó chính là “muốn học pháp lệnh, lấy quan làm thầy”.
Về phạm vi đốt sách, trong Sử ký chắc chắn là có sự cường điệu. Từ các Nghệ văn chí sách Hán thư cho đến các văn hiến thư tịch sau này thì đối tượng của lệnh đốt sách của Tần Thủy Hoàng chính là “Thi”, Thư và sách sử của các nước chư hầu. Còn các loại sách khoa học, văn hóa, y học, nông nghiệp,.. và các loại sách ở thư viện của các quốc gia chư hầu một cuốn cũng không đụng đến. Vương Sung đời Đông Hán từng nói rằng: “Tần tuy vô đạo nhưng không đốt sách của chư tử, sách và các bài văn của chư tử vẫn còn rất đầy đủ”.
Ngoài ra, Tần Thủy Hoàng vẫn lưu giữ tại thư viện hoàng gia một bộ sách rất hoàn chỉnh bao gồm đầy đủ các loại điển tịch, khiến cho “kinh điển của thánh nhân vẫn còn lưu truyền”, sử ký của các nước vẫn còn giữ được. Chỉ đáng tiếc là mấy năm sau đó Sở Bá Vương Hạng Vũ một đuốc đã đốt sạch cung điện nhà Tần. Những điển tịch văn hóa này cũng vì thế mà cháy rụi.
Có lời nhận định: Tần Thủy Hoàng chỉ là vô ý mà thiêu hủy sạch các loại điển tịch, sử sách. Còn mục đích của việc đốt sách là vì không muốn thần dân lợi dụng các loại sách này để chống đối lại mình và làm cơ sở để xây dựng vương triều mới. Đương thời cũng có rất nhiều sách của các quý tộc sáu nước công kích Tần Thủy Hoàng và sự thống trị của ông ta. Để duy trì nền thống trị của mình, tất nhiên Tần Thủy Hoàng muốn đốt những loại thư tịch này. 
Lại có nhận định khác:  Tần Thủy Hoàng rất coi trọng công việc xây dựng nền văn hóa. Việc “đốt sách” của Tần Thủy Hoàng thực tế chỉ là ngẫu nhiên. Trước đó, hơn 34 năm dưới sự trị vì của Tần Thủy Hoàng nước Tần chưa từng xảy ra sự việc nào tương tự như vậy. Mặc dù vậy,  việc “đốt sách” của Tần Thủy Hoàng cũng không thể coi là một tội trạng lớn được. 
Còn việc “chôn nho” thì  Sử ký cũng có ghi chép rất đầy đủ. Nhân vật chủ yếu là của tấn kịch này là những thuật sĩ. Họ là người như thế nào? Nói thẳng ra là một lũ lừa đảo. Họ lấy việc đi tìm tiên dược trường sinh bất tử để lừa Tần Thủy Hoàng, được tín nhiệm, được quan chức và giàu sang nhưng lại không hoàn thành được công việc mà họ khoe khoang. Đến khi sự việc bại lộ, sợ Tần Thủy Hoàng hoạch tội thì không có kết cục tốt vì thế họ mới tìm cách cấu kết với các thế lực tàn dư của sáu nước đình khởi binh tấn công nước Tần. Những người này không chỉ là lừa bịp hoàng đế, về chính trị, muốn lật đổ đế vương, còn chạy trốn trách nhiệm, bỏ cả chức quan. Những người như thế ở triều đại nào trong lịch sử cũng là đáng tội chết cả chứ không phải là chỉ dưới triều Tần. 
Khi Tần Thủy Hoàng biết mình bị lừa, bị nói xấu, mới nổi cơn thịnh nộ, theo luật mà xử tội những thuật sĩ này. Theo những ghi chép của sử sách thì Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh giết hơn 460 người nhưng những người này hoàn toàn đáng chết. Những người bị giết này có ba loại chủ yếu: Một loại là những thuật sĩ Hầu sinh, Lư sinh. Họ.
Thứ ba, sau khi xây dựng trường thành, việc phòng ngự quân Hung Nô cũng có thể giảm đi, từ đó việc phát triển kinh tế trong vùng Trung Nguyên sẽ có thể tăng cường. Nhà Tần và Hung Nô mười năm không có binh đao. Vì thế lợi ích của công trình này không chỉ là tạo phúc cho đương thời mà các triều đại sau đó cũng thừa hưởng không ít lợi ích.
Tần Thủy Hoàng đối với những văn thần võ tướng tài ba cũng rất tín nhiệm, mang con gái mình gả cho họ. Còn mang đứa con trai yêu quý nhất của mình là thái tử Phù Tô giao cho đại tướng quân Mông Điềm. Phù Tô sống một thời gian dài cùng với Mông Điềm ở bên ngoài cấm cung. Đây đều là những minh chứng cho thấy mối quan hệ trong thời kỳ Tần Thủy Hoàng trị vì được duy trì khá tốt, tuyệt đối không có sự vô lễ càn rỡ như thời kỳ Trinh Quán dưới sự trị vì của Đường Thái Tông. Nhưng điều này lại bị người đời sau coi nhẹ hoặc bỏ qua.
Vạn Lý Trường Thành (chữ Hán giản thể: 万里长城; phồn thể: 萬里長城; Bính âm: Wànlĭ Chángchéng; có nghĩa là "Thành dài vạnlý") là bức tường thành nổi tiếng của Trung Quốc liên tục được xây dựng bằng đất và đá từ thế kỷ 5 TCN cho tới thế kỷ 16, để bảo vệ Đế quốc Trung Quốc khỏi những cuộc tấn công của người Mông Cổ, người Turk, và những bộ tộc du mục khác đến từ những vùng hiện thuộc Mông Cổ và Mãn Châu. Một số đoạn tường thành được xây dựng từ thế kỷ thứ 5 TCN, trong đó nổi tiếng nhất là phần tường thành do Hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc là Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây từ năm 220 TCN và 200 TCN, nằm ở phía bắc xa hơn phần Vạn Lý Trường Thành hiện nay của Trung Quốc xây dưới thời nhà Minh, và hiện chỉ còn sót lại ít di tích.
Bức thành trải dài 6.352 km (3.948 dặm Anh), từ Sơn Hải Quan trên bờ Biển Bột Hải ở phía đông, tại giới hạn giữa Trung Quốc bản thổ ("đất Trung Quốc gốc") và Mãn Châu, tới Lop Nur ở phần phía đông nam Khu tự trị người Duy Ngô Nhĩ tại Tân Cương.
Một tường thành có tính chất phòng thủ biên giới phía bắc được xây dựng và duy trì bởi nhiều triều đại trong nhiều khoảng thời gian trong lịch sử Trung Quốc. Mục đích chính của nó là bảo vệ người Trung Quốc khỏi sự di cư của người Mông Cổ và người Thổ Nhĩ Kỳ. Có năm đoạn thành chính:
208 TCN (nhà Tần)
thế kỷ thứ 1 TCN (nhà Hán)
thế kỷ thứ 7 (nhà Tùy)
1138 - 1198 (Thời Nam Tống)
1368 - 1640 (từ vua Hồng Vũ đến vua Vạn Lịch của nhà Minh)
Đoạn tường thành chính đầu tiên được xây dựng dưới thời cai trị của Tần Thuỷ Hoàng, vị Hoàng đế đầu tiên của nhà Tần với thời gian tồn tại ngắn ngủi. Bức tường này không được xây dựng bởi nỗ lực của một nhóm mà là việc ghép nối nhiều đoạn tường thành của các vùng, từng được xây dựng ở thời Chiến Quốc, vào nhau. Bức tường được nối vào nhau ở thời gian đó làm bằng đất nện với những tháp canh được xây ở các khoảng cách đều nhau. Nó nằm xa hơn về phía bắc so với Vạn lý trường thành hiện tại với điểm cực đông nằm ở Bắc Triều Tiên hiện nay. Chỉ còn ít phần của nó còn sót lại - các bức ảnh cho thấy những ụ đất thấp, dài.
Triều đình bắt người dân phải làm việc để đắp thành, và các công nhân luôn bị nguy hiểm vì có thể bị bọn cướp tấn công. Bởi vì có nhiều người đã chết khi xây dựng thành, nó được đặt cho cái tên khủng khiếp, "Nghĩa địa dài nhất Trái đất". Có lẽ khoảng một triệu công nhân đã chết khi xây dựng bức tường thành.
Bức tường dài tiếp theo được nhà Hán, nhà Tùy, và giai đoạn Thập Quốc xây dựng tiếp với cùng kiểu thiết kế. Nó được làm bằng đất nện với nhiều tháp canh nhiều tầng được xây cách nhau vài dặm. Các bức tường thành cũng đã bị hư hại nhiều và đã lẫn vào phong cảnh xung quanh, bị ăn mòn bởi gió và nước mưa.
Về mặt quân sự, những bức tường này có ý nghĩa về mặt phân chia ranh giới hơn là công sự bảo vệ có giá trị. Chắc chắn rằng chiến lược quân sự của Trung Quốc không diễn ra quanh việc giữ vững bức tường thành.
Vạn Lý Trường Thành được xây ở thời nhà Minh, bắt đầu khoảng năm 1368 và kết thúc khoảng năm 1640. Mục đích đầu tiên của bức tường là để ngăn bước những giống người bán du mục phía bên ngoài (như người Mông Cổdưới sự chỉ huy của hãn vương Altan và Oirats dưới sự chỉ huy của Esen Taiji) vào cướp bóc bên trong Trung Quốc khi họ sử dụng ngựa để di chuyển; hay ngăn cản sự quay trở về của họ với những thứ cướp bóc được.
Vạn Lý Trường Thành thời nhà Minh bắt đầu từ điểm phía đông tại Sơn Hải Quan, gần Tần Hoàng Đảo, ở tỉnh Hà Bắc gần Vịnh Bột Hải. Kéo dài qua chín tỉnh và 100 huyện, 500km cuối cùng vẫn còn nhưng đã thành những đống gạch vụn, và hiện nay nó kết thúc ở điểm cuối phía tây di tích lịch sử Gia Dục Quan (嘉峪关), nằm ở phía tây bắc tỉnh Cam Túc tại biên giới với Sa mạc Gobi và những ốc đảo của Con đường tơ lụa. Gia Dục Quan được xây để tiếp đón những nhà du hành dọc theo Con đường tơ lụa. Mặc dù Vạn Lý Trường Thành kết thúc ở Gia Dục Quan, tại đó có rất nhiều "phong hoả đài" (烽火台) trải dài về phía Gia Dục Quan dọc theo Con đường tơ lụa. Những đài quan sát đó dùng dấu hiệu bằng khói để cảnh báo có xâm lược.
Năm 1644, người Mãn Kokes vượt qua bức tường thành bằng cách thuyết phục một vị tướng quan trọng là Ngô Tam Quế mở cửa những cánh cổng Sơn Hải Quan để cho người Mãn Châu vượt qua. Truyền thuyết kể rằng quân Mãn Châu mất ba ngày mới vượt hết qua đèo. Sau khi người Mãn Châu chinh phục Trung Quốc, bức tường thành không còn giá trị chiến lược nữa, đa phần bởi vì người Mãn Châu đã mở rộng quyền kiểm soát chính trị của họ ra xa phía bắc, còn xa hơn cả triều Trung Quốc trước đó. Xem thêm ở nhà Thanh (Mãn Châu).
Đoạn tường cuối cùng thời nhà Minh thực sự là một công sự quân sự về một số mặt. Tuy nhiên, các nhà sử học quân sự thường gạt bỏ giá trị thực của bức tường thành vĩ đại này. Người ta tốn cực kỳ nhiều tiền của và công sức để xây dựng, duy trì và đóng giữ. Số tiền nhà Minh chi phí vào bức tường này đáng ra có thể để chi vào cải thiện khả năng quân sự khác như mua pháo kiểu châu Âu hay súng trường. Sự thực là bức tường thành không hề có giá trị trong việc giúp ngăn chặn sự sụp đổ của nhà Minh.

Một số cửa quan-cửa ải nổi tiếng dọc Vạn Lý Trường Thành
Sơn Hải Quan: cửa ải đầu tiên của Trường Thành, nằm ở nơi giáp ranh giữa hai tỉnh Hà Bắc và Liêu Ninh, khởi điểm của Trường Thành, phía nam của dãy núi Yên Sơn, phía bắc của Biển Bột Hải, do tướng Từ Đạt nhà Minh xây dựng. Tên Sơn Hải quan cũng là do đứng ở nơi đây có thể ngắm được, quan sát được toàn cảnh núi non và biển cả hùng vỹ, với non xanh nước biếc, đồi núi và biển cả soi bóng. Cửa ải này có 4 cửa, cửa phía Đông có một bức hoành phi với dòng chữ "Thiên hạ đệ nhất quan" dài 5,9 m, rộng 1,6 m. Chiều cao của chữ là 1,45 m, rộng 1,09 m do Tiêu Hiển, tiến sĩ, nhà thư pháp nổi tiếng của Nhà Minh viết.
Gia Dụ Quan: còn gọi là Hoà Bình Quan, là cửa quan nằm ở khởi điểm phía tây của Trường Thành, trên địa bàn thành phố Gia Dụ Quan, tỉnh Cam Túc, xây dựng vào năm thứ 5Hồng Vũ 1372.
Nương Tử Quan: còn gọi là Vi Trạch Quan, thuộc địa bàn huyện Bình Định, tỉnh Sơn Tây. Địa thế hiểm trở, núi non trùng điệp, dễ phòng khó công nên được mệnh danh là "Tam tấn môn hộ". Hồi đầu nhà Đường, công chúa Bình Dương, con gái thứ 3 của Lý Uyên từng dẫn vài vạn tướng sĩ canh giữ tại đây. Công chúa Bình Dương võ nghệ cao cường, đạo quân của công chúa được gọi là "nương tử quân". Bởi vậy mọi người đổi tên cửa ải này thành Nương Tử Quan. Đến nay trên cánh cửa đông môn thành trì Nương Tử Quan còn có 5 chữ "Trực thuộc Nương tử Quan".
Ngọc Môn Quan: ở Tiểu Phương Bàn Thành phía tây Huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc. Tên Ngọc Môn Quan là do tất cả đá ngọc sản xuất ở Hoà Điền, Tân Cương thời cổ đều phải đi qua cửa ải này.
Biển Đầu Quan: cửa ải thuộc huyện Biển Đầu, tỉnh Sơn Tây, một vùng đất không bằng phẳng, phía đông cao, phía tây thấp, nên mọi người mới gọi là Biển Đầu Quan.
Nhạn Môn Quan: nằm trên một thung lũng ở huyện Đại, tỉnh Sơn Tây, có khí thế hoành tráng, hai bên là vách núi dựng đứng, chỉ những con nhạn, con én mới bay qua được mà chỉ bay dọc theo thung lũng qua phía trước cửa ải, bởi vậy mọi người mới gọi là Nhạn Môn Quan.
Cư Dung Quan: ở núi Tử Kinh, huyện Dị, tỉnh Hà Bắc.
Các tháp canh và trại lính
Mỗi tháp chỉ có một lối lên duy nhất và các cửa vào cũng như đường lên rất hẹp làm cho những kẻ tấn công dễ bị rối loạn.Bức tường thành được bổ sung những điểm đóng quân bảo vệ, để những người lính bảo vệ có thế rút lui nếu quân địch quá đông.

Các trại lính và các trung tâm hành chính nằm ở những khoảng cách lớn.
[Các loại vật liệu chính để xây thành
Các vật liệu được sử dụng là những thứ có sẵn gần nơi xây dựng. Gần Bắc Kinh bức tường được làm bằng những khối đá vôi khai thác tại mỏ. Ở những nơi khác có thể là đá granite hay gạch nung. Nếu sử dụng những vật liệu đó, đầu tiên họ dựng hai bức tường sau đó nén đất và gạch đá vào giữa cùng một lớp phủ cuối cùng bên ngoài để tạo thành một khối duy nhất. Ở một số vùng các khối đó được gắn với nhau bằng một hỗn hợp nhớp dính của gạo và lòng trắng trứng. 147
Sựcông nhận
Bức tường thành nằm trong các danh sách "Bảy kỳ quan thời Trung cổ của Thế giới", tất nhiên nó không nằm trong danh sách truyền thống Bảy kỳ quan thế giới mà người Hy Lạp cổ đại công nhận.

Bức tường thành trở thành Di sản thế giới của UNESCO năm 1987.
Người Trung Quốc có câu nói 不到长城非好汉, có nghĩa "Bất đáo Trường Thành phi hảo hán" đã được khắc bia tại trường thành.

Từ ngoài Trái đất
Đã có một sự tranh cãi từ lâu về việc bức tường thành sẽ thế nào nếu nhìn từ vũ trụ. Quan điểm rằng nó có thể được nhìn thấy từ vũ trụ có vẻ xuất hiện trước khi có các chuyến bay của con người vào vũ trụ.

Trong cuốn sách Cuốn sách thứ hai về những kỳ quan của Richard Halliburton năm 1938 có nói Vạn Lý Trường Thành là vật nhân tạo duy nhất có thể nhìn thấy được từ Mặt Trăng, và một truyện tranh tên là "Tin hay không tin của Ripley" ở thời gian đó cũng đưa ra tuyên bố tương tự. Niềm tin này kéo dài và trở thành một truyền thuyết đô thị, thỉnh thoảng thậm chí xuất hiện cả trong những cuốn sách giáo khoa. Arthur Waldron, tác giả cuốn lịch sử Vạn Lý Trường Thành đáng tin cậy nhất trong mọi ngôn ngữ đã chỉ ra rằng sự tin tưởng vào việc Vạn Lý Trường Thành có thể nhìn thấy được từ mặt trăng cũng giống như sự phấn khích của một số người khi tin rằng có những "kênh đào" trên bề mặt Sao Hỏa vào cuối thế kỷ 19. Trên thực tế, Vạn Lý Trường Thành đơn giản là không thể nhìn thấy bằng mắt thường nếu không có công cụ hỗ trợ từ Mặt Trăng, chưa nói đến nhìn từSao Hỏa.
Khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng khoảng một nghìn lần lớn hơn khoảng cách từ Trái Đất đến con tàu vũ trụ bay trên quỹ đạo gần Trái Đất. Nếu Vạn lý trường thành có thể nhìn thấy được từ Mặt Trăng, thì sẽ dễ dàng nhìn thấy nó từ quỹ đạo gần Trái Đất. Trên thực tế, từ quỹ đạo gần Trái Đất, nó rõ ràng là hơi thấy được, và chỉ trong những điều kiện tốt. Và nó cũng không rõ rệt hơn nhiều vật thể khác do con người tạo ra.
Một nhà du hành tàu con thoi thông báo rằng "chúng tôi có thể thấy những vật nhỏ như những đường băng sân bay [nhưng] Vạn Lý Trường Thành hầu như không nhìn thấy được từ khoảng cách 180 dặm Anh (290 km) trở lên." Nhà du hành vũ trụ William Pogue cho rằng ông đã thấy nó từSkylab nhưng phát hiện ra rằng trên thực tế ông đang nhìn vào Đại Vận Hà gần Bắc Kinh. Ông phát hiện ra Vạn Lý Trường Thành với ống nhòm, nhưng nói rằng "nó không thể nhìn thấy được bằng mắt thường không có thiết bị hỗ trợ." Một nhà du hành trong chương trình Apollo đã nói không

một cấu trúc nào của con người có thể nhìn thấy từ khoảng cách vài nghìn dặm. Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ Jake Garn tuyên bố có thể nhìn thấy Vạn Lý Trường Thành bằng mắt thường từ trên quỹ đạo của tàu vũ trụ đầu thập kỷ 1980, nhưng tuyên bố của ông còn đang bị nhiều nhà du hành vũ trụ chuyên nghiệp khác của Mỹ phản đối. Nhà du hành vũ trụ Dương Lợi Vĩ người Trung Quốc sau 21,5 giờ bay vòng quanh Trái Đất đến 14 lần, trở lại mặt đất đã xác minh trên truyền hình là không nhìn thấy được Vạn Lý Trường Thành từ không gian. Điều này dẫn đến việc Trung Quốc phải đính chính lại sách giáo khoa đã đăng thông tin này.
Từ quỹ đạo Trái Đất tầm thấp nó có thể được nhìn thấy với điều kiện thời tiết tốt. Điều này giống như việc có thể thấy các đặc điểm của Mặt Trăngở những thời điểm nhất định và không thấy chúng vào những thời điểm khác, vì sự thay đổi trong hướng ánh sáng. Vạn Lý Trường Thành chỉ rộng vài mét — kích thước tương đương với đường xa lộ và đường băng — và nó đồng màu với đất đá xung quanh.
Leroy Chiao, một nhà du hành người Mỹ gốc Hoa, đã chụp một bức ảnh từ Trạm vũ trụ quốc tế có hình bức tường thành. Nó không rõ đến mức mà ông không biết có phải đã thực sự chụp nó không. Dựa trên bức ảnh đó, một tờ báo nhà nước của Trung Quốc đã kết luận rằng Vạn Lý Trường Thành có thể được nhìn thấy từ vũ trụ bằng mắt thường, trong những điều kiện quan sát tốt, nếu người ta biết chính xác phải nhìn ở đâu

Trong lịch sử cổ đại Trung Quốc có hai công trình của hoàng đế bị đều bị hiểu sai. Một là xây dựng Vạn lý trường thành của Tần Thủy Hoàng, một công trình nữa là xây dựng Đại Vận Hà của Tùy Dạng Đế. Cả hai vị hoàng đế này đều là “gây họa một thời”, nhưng cả hai công trình thì đều có thể nói là “tạo phúc cho trăm đời sau”. Xây dựng trường thành, đào Đại Vận Hà đều được người đời sau coi đó là tội tàn ác với nhân dân, là nguyên nhân mất nước. Nhưng kỳ thực đây là một sự phê phán sự bất công bằng và không khách quan. Thử hỏi có vị hoàng đế anh minh nào lại không dụng mọi lực lượng có được để bảo vệ lợi ích của quốc gia mình, trừ phi bản thân mình không có thực lực.


.Trong dân gian có một truyền thuyết như sau:
Sự thật về nàng Mạnh Khương khóc đổ Trường Thành
Mạnh Khương Nữ hay Nàng Mạnh Khương (孟姜女) là một nhân vật trong truyện cổ tích dân gian Mạnh Khương Nữ khóc Trường Thành của Trung Quốc. Câu chuyện kể rằng, Một kiếp trước của Mạnh Khương Nữ và Vạn Hỷ Lương tu luyện 500 năm ở núi Thạch Hà thành tiên hạc và cửu vĩ hồ.Do tự ý xuống trần gian vi phạm luật của thiên đình,cả hai bị Vương Mẫu nương nương đày xuống trần gian.Hai người có duyên gặp gỡ yêu thương và quyết địnhkết thành phu thê. Đúng lúc đó vào thờiTần Thủy Hoàng, Không ngờ, ngay trong đêm tân hôn của Mạnh Khương Nữ với tân lang là một thư sinh Giang Nam tên Phạm Hỷ Lương, chồng Mạnh Khương Nữ bị triều đình bắt đi xây dựng Vạn Lý Trường Thành. Đến mùa Đông, Mạnh Khương Nữ đan áo cho chồng và đã lặn lội tìm chồng để trao áo. Mạnh Khương Nữ đã đi khắp theo chiều dài của Trường Thành, hỏi thăm nhiều người và cuối cùng nhận được hung tin chồng mình bị chết vùi thây dưới Trường Thành. Nàng Mạnh Khương đau buồn khóc lóc thảm thiết 3 ngày 3 đêm, nước hòa lẫn máu. Tiếng khóc của Mạnh Khương vang xa 800 dặm Trường Thành, làm sụp đổ một khúc thành, để lộ xác chết của chồng mình. Nàng an táng cho chồng xong liền nhảy xuống biển tự vẫn. Ngày nay, tại quận Sơn Hải Quan thuộc địa cấp thị Tần Hoàng Đảo của tỉnh Hà Bắc có miếu thờ Mạnh Khương Nữ.


Có một nhận định khác:
Căn cứ mà các chuyên gia đưa ra kết luận trên là những ghi chép trong Đôn Hoàng Di Thư mà cụ thể là các chi tiết trong Biến văn về nàng Mạnh Khương. Đó là câu: “Tần Vương viễn thác Kim hà Bắc, trúc thành bản nghĩ phòng Hồ tặc (*)” (tạm dịch: Tần Thủy Hoàng xây Trường Thành đến tận bờ Bắc sông Kim, vốn để phòng giặc Hồ xâm lược). “Kim Hà” là sông Đại Hắc gần thành phố Hô Hòa Hạo Đặc, thuộc khu tự trị Nội Mông. Ở đây chỉ có đoạn Trường Thành đi qua núi Âm Sơn.
Một câu khác nói về nơi Phạm Hỷ Lương, chồng nàng Mạnh Khương, xây Trường Thành: “Nặc Trực sơn thượng… bị áp thân chung, hồn mai Tái Bắc” (tạm dịch: Phạm Hỷ Lương bị bắt xây Trường Thành trên núi Nặc Trực đến chết, linh hồn chàng vẫn còn quanh quẩn ở Tái Bắc). Núi Nặc Trực tức là núi Nặc Chân, nay là núi Âm Sơn thuộc thành phố Bao Đầu.
Những ghi chép trong Biến văn về nàng Mạnh Khương còn nhắc đến “Tần Vương”, “Du Lâm Trường Thành”. Vào thời Tùy-Đường, Du Lâm là địa danh chỉ khu vực huyện Lâm Cách Nhĩ và thành phố Hô Hòa Hạo Đặc ngày nay, nghĩa là cũng có quan hệ với núi Âm Sơn.
Những ghi chép đó phù hợp với sự thật lịch sử lúc bấy giờ. Trường Thành mà nhà Tần xây dựng thực chất chỉ là tu bổ, sửa chữa các đoạn thành của nước Tần, nước Triệu, nước Yên đã có trước đó, rồi nối chúng lại với nhau, đồng thời mở thêm một đoạn mới tại núi Âm Sơn. Bởi vì quân Hung nô đồn trú tại núi Âm Sơn, còn trung tâm chính trị Đầu Man của họ ở sông Ngải Bất Cái, phía nam đường Cô Dương thuộc thành phố Bao Đầu tiếp giáp nhà Tần.
Có thể thấy, Bao Đầu có một vị trí chiến lược quan trọng. Để bảo vệ nhân dân, đề phòng Hung nô xuất binh về phía nam xâm lược Trung nguyên nên việc Phạm Hỷ Lương bị nhà Tần bắt đi xây Trường Thành ở Bao Đầu là hoàn toàn có cơ sở.
Ngoài ra, tại đoạn Trường Thành có tên Hồng Thạch Bản Câu (ở Bao Đầu) hiện còn một lỗ hổng, tương truyền đây chính là đoạn Trường Thành mà nàng Mạnh Khương đã khóc đổ trên đường vạn lý tìm chồng.

 Một vài suy nghĩ: Tần Thủy Hoàng có thực là tàn bạo không? Không hoàn toàn là như vậy. Lại lấy thêm một ví dụ nữa để nói. Thời kỳ Tần Thủy Hoàng trị vì, quan hệ vua tôi trong triều đình rất tốt. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, không hề lạm sát công thần như những vị vua sáng nghiệp khác trong lịch sử. Các công thần đều tiếp tục được trọng dụng. Điều này đối ngược lại hẳn so với Hán Cao Tổ Lưu Bang và Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương. Trong xã hội phong kiến, “thỏ chết hết, chó săn cũng bị thịt” đã trở thành định luật bất biến, nhưng Tần Thủy Hoàng lại không hề như vậy.
“Đế vương thiên cổ” Tần Thủy Hoàng có rất nhiều cống hiến quan trọng đối với dân tộc Trung Hoa. Trong sự so sánh, thành tích chính trị của Tần Thủy Hoàng không mảy may càn rỡ, ngông nghênh như Hán Cao Tổ, Hán Vũ Đế, Đường Thái Tông, Tống Thái Tổ, Minh Thái Tổ, Khang Hy,… thậm chí còn cao hơn hẳn một bậc. Có lẽ, những điều được coi là tội ác của ông ta đều là do người đời sau hiểu nhầm, hiểu sai.

Hiện tại sự đánh giá đối với Tần Thủy Hoàng cũng ngày càng đúng với chân tướng, sát thực lịch sử. Có thể, Tần Thủy Hoàng  là một vì hoàng đế đáng tự hào trong lịch sử Trung Hoa.
Vị vua vĩ đại này đã ghi lại những kỉ lục về quân sự và ngoại giao của mình bằng một series những tấm thẻ gỗ, thẻ tre. Ông đã thành công trong việc phát huy tôn giáo cũng như xây dựng một chế độ cai trị hoàn hảo. Trong số những thành tựu quan trọng khác của vị vua đầu tiên này còn có việc tiêu chuẩn hóa hệ thống các văn bản khác nhau, thống nhất đơn vị đo lường và tiền tệ. Mặc dù có những tiến bộ nhưng Tần Thủy Hoàng là vị vua chuyên chế trong triều đại cai trị của mình.
Chuyện kể trong Lăng Mộ Tần Thủy Hoàng:
Điều thú vị là những thợ xây dựng tuyệt vời này đã sắp xếp rất ngăn nắp các buồng an táng sau khi vị vua này lên ngôi năm 246 trước công nguyên khi mới 13 tuổi. Theo sau những tài liệu về đặc điểm cá nhân của mình, Tần Thủy Hoàng mong muốn có một công thức hoàn hảo để giúp ông có thể duy trì đế chế cai trị linh thiêng của mình. Tuy nhiên, công trình này phải mất 36 năm mới được hoàn thành (hoàn thành năm 210 trước CN).
Việc khám phá ra kho tàng bảo cổ này diễn ra năm 1974 khi một nhóm các nông dân Trung Quốc đi qua lăng mộ này trong khi cố gắng khoan một nguồn nước. Điều gây nên ấn tượng mạnh mẽ của nó là kích thước vô cùng lớn và những tác phẩm nghệ thuật độc đáo được lưu giữ trong đó. Nó bao gồm 8.000 quân nhân được thực hiện bằng đất nung với kích thước như người thật và cả một đội quân ngựa. Bởi vì mỗi bức tượng là một cá thể riêng biệt nên chúng được xây dựng với loại đất sét nung với bề dày khoảng 8 cm. Bạn có thể phân biệt từng người lính, những con ngựa trong vẻ độc đáo riêng, có vũ khí và cả trang phục.
Các chiến binh được đặt theo cấp bậc mà họ nắm giữ trong thời gian đó. Sự khác nhau của 8.000 chiến binh này được đặt trong 3 gian phòng tách biệt. Căn phòng đầu tiên và lớn nhất là hầu hết những người đang hoạt động tích cực. Căn phòng thứ hai là nơi dự trữ trong khi căn phòng thứ 3 nhỏ hơn có 68 chỉ huy ưu tú. Tất cả binh lính đều quay mặt về hướng Đông để bảo vệ sau khi Tần Thủy Hoàng qua đời từ những cuộc tấn công của đối phương có thể đến từ hướng đó.
Bí ẩn về những căn phòng với những tượng đất nung các binh lính trên thực tế chỉ chiếm 1% diện tích của toàn lăng mộ. Phần trung tâm với chiều cao gần 30 mét xây dựng bên dưới một kim tự tháp bằng đất nung vẫn chưa hề được khai quật. Theo các tài liệu sử học Trung Quốc và những truyền thuyết được lưu truyền rộng rãi, nó giống như một phần của bản đồ thành phố với những bức tường, cung điện, nghĩa trang tức là có thể phục vụ Tần Thủy Hoàng khi ông sang thế giới bên kia. Các con sông và dòng nước được làm từ thủy ngân trong khi bầu trời được thiết kế với những chòm sao làm từ ngọc trai.
Cung điện ngầm này được cho là một cấu trúc phức hợp hùng vĩ nhất với những tiện ích xa hoa. Nó có thể là địa điểm chôn cất của những kho báu: đá quý, vàng bạc, nhiều kim loại quý khác… Cấu trúc phức tạp của nó được trang bị cả hệ thống chống thấm trong diện tích gần 7 km2 đã lấy đi sinh mạng của khoảng 700.000 tù nhân chiến tranh và những nô lệ. Sau khi công trình hoàn thành họ đều bị thủ tiêu để đảm bảo bí mật của lăng mộ. Để đảm bảo cộc sống thứ hai hoa lệ như cuộc sống khi ông còn sống, những mĩ nhân của ông cũng được chôn theo cùng với lăng mộ.

Mặc dù việc mở cửa cho khách du lịch đã được thực hiện nhưng người ta cũng chưa biết đến khi nào toàn bộ bí ẩn của lăng mộ này mới được hé lộ hoàn toàn.
Các tượng được sắp xếp thẳng tắp như khi ra trận, các bức tượng có kích cỡ như người thật hướng về hướng Đông, hướng kẻ thù thường tấn công. Vua Tần đã đúng khi lo lắng về lăng mộ của mình sau khi ông chết, quân nổi loạn đã cướp phá lăng mộ và mang đi những đồ đạc quí giá.
Vẫn còn giữ được màu sắc nguyên thủy, 6000 bức tượng làm từ đất sét đòi hỏi sức lao động của hàng trăm thợ thủ công nhằm chế tác ra hàng loạt các thân tượng, nhưng mỗi phần đầu và khuôn mặt là hoàn toàn khác nhau, mỗi tượng một vẻ riêng và không tượng nào giống tượng nào.
Quân nổi loạn đã phá hủy nhiều bức tượng đất sau khi Tần Thủy Hoàng chết năm 210 trước công nguyên. Lăng mộ vĩ đại này phải mất đến 36 năm để hoàn thành.
Những bức tượng đất nung mới đầu có thể được sơn màu. Nhưng sau hơn 2.000 năm nằm dưới đất, màu của chúng đã biến mất.
Mỗi một bức tượng có một vẻ riêng và được nặn một cách khéo léo bằng tay từ năm 221 trước Công nguyên. Tìm hiểu từng chiến binh trong đội quân cũng là một điều vô cùng thú vị. Qua vẻ ngoài, người ta có thể xác định được chiến binh đó là người vùng nào ở Trung Quốc.
Cũng giống như danh tiếng của Tần Thủy Hoàng, đội quân đất của ông có sức trường tồn đáng kinh ngạc đối với các nhà khoa học.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét