Chủ Nhật, 4 tháng 7, 2010

TRẦN THÁI TÔNG- TRẦN THÁNH TÔNG- TRẦN NHÂN TÔNG

I. Trần Thái Tông

 


Trần Thái Tông (chữ Hán: 陳太宗 ; 1218 – 1277) là vị vua đầu tiên của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi hơn 32 năm (1225 - 1258), làm Thái thượng hoàng 19 năm.
Ông nguyên tên thật là Trần Bồ陳蒲  sau đổi thành Trần Cảnh 陳煚, là con thứ của Trần Thừa, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần, niên hiệu Kiến Gia thứ 8 triều Lý (tức 10 tháng 7 năm 1218). Khi ông sinh ra, họ Trần đã nắm quyền thao túng triều chính nhà Lý. Do sự sắp đặt của người chú họ là Trần Thủ Độ - quyền thần đương thời - ông lấy nữ hoàng đầu tiên và là vua cuối cùng của nhà Lý làLý Chiêu Hoàng khi mới lên 7 tuổi.
Năm Thái Tông lên hai mươi tuổi, Lý Chiêu Hoàng mười chín tuổi đang là Hoàng hậu, bị Trần Thủ Độ ép Thái Tông giáng Chiêu Hoàng làm Công chúa, lấy chị bà là Thuận Thiên, vợ Trần Liễu (anh ruột Thái Tông) làm Hoàng hậu. Lý do vì Thủ Độ nôn nóng Thái Tông có con để kế thừa, mà Chiêu Hoàng chậm con, chị bà đang mang thai. Trần Liễu phẫn uất nổi loạn tháng giêng năm Bính Thân (1236).
Do nhiều nỗi khổ và lòng ray rứt bất an, lúc mười giờ đêm ngày mồng ba tháng tư năm 1236, vua Thái Tông bỏ ngai vàng, trốn lên núi Yên Tử đi tu. Vua đem theo một số tùy tùng, nói đi để nghe dư luận dân gian, biết rõ sự thật cho dễ bề trị nước. Sang sông, đoàn người đi về phía đông. Bấy giờ Vua mới nói rõ ý định đi tu với các người tùy tùng và bảo họ trở về. Mọi người đều ngạc nhiên và khóc lóc. Vào khoảng sáu giờ sáng hôm sau Vua đến bến đò Đại Than ở núi Phả Lại. Trời sáng, sợ người nhận ra, Vua lấy vạt áo che mặt mà qua đò, rồi theo đường tắt lên núi. Đến tối, Vua vào nghỉ trong chùa Giác Hạnh, đợi sáng lại đi. Khó khăn trèo núi hiểm, lội suối sâu, con ngựa đã yếu không thể lên núi được nữa, Vua phải bỏ ngựa vịn vào các tảng đá mà đi. Khoảng hai giờ trưa mới đến chân núi Yên Tử. Sáng hôm sau, Vua lên thẳng đỉnh núi và vào tham kiến Thiền sư Trúc Lâm (có lẽ Thiền sư Đạo Viên).
Thấy Trẫm, Quốc sư mừng rỡ. Người ung dung bảo Trẫm:
- Lão tăng ở chốn sơn dã đã lâu, xương cứng mặt gầy, ăn rau đắng cắn hạt dẻ, uống nước suối, vui cảnh núi rừng đã quen, lòng nhẹ như đám mây nổi, cho nên mới theo gió mà đến đây. Nay Bệ hạ bỏ địa vị nhân chủ mà nghĩ đến cảnh quê mùa rừng núi, hẳn là muốn tìm cầu gì ở đây cho nên mới đến, phải không?
Trẫm nghe lời thầy hỏi, hai hàng nước mắt ứa ra, liền thưa với thầy rằng:
- Trẫm còn thơ ấu, đã sớm mất mẹ cha, trơ vơ đứng trên sĩ dân, không có nơi nào để nương tựa. Lại nghĩ rằng sự nghiệp đế vương đời trước hưng phế bất thường, cho nên mới vào đây, chỉ muốn cầu thành Phật, chớ chẳng muốn tìm gì khác.
Thầy đáp:
- Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Nếu tâm lắng lặng trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật. Nếu Bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài.
(Bài tựa sách Thiền Tông Chỉ Nam)
Hôm sau, Trần Thủ Độ đem các quan lên núi Yên Tử đón Vua về kinh. Bài tựa Thiền Tông Chỉ Nam, Thái Tông viết:
Thấy Trẫm, Trần Công thống thiết nói:
- Tôi chịu lời ủy thác của Tiên quân, phụng sự nhà vua trong việc làm chủ thần dân. Nhân dân đang mong đợi Bệ hạ như con đỏ trông đợi cha mẹ. Huống chi ngày nay các vị cố lão trong triều đều là họ hàng thân thích, sĩ thứ trong nước ai nấy đều vui vẻ phục tùng, đến đứa trẻ lên bảy cũng biết nhà vua là cha mẹ dân. Vả lại Thái Tổ vừa mới bỏ tôi mà đi, hòn đất trên nấm mồ chưa ráo, lời dặn dò bên tai còn văng vẳng, thế mà Bệ hạ đã lánh vào chốn núi rừng ẩn cư để cầu thỏa lấy ý chí riêng của mình. Tôi dám nói rằng Bệ hạ vì sự tự tu cho riêng mình mà làm vậy thì được, nhưng còn quốc gia xã tắc thì sao? Nếu để lời khen suông cho đời sau thì sao bằng lấy ngay thân mình làm người dẫn đạo cho thiên hạ? Bệ hạ nếu không nghĩ lại, quần thần chúng tôi cùng thiên hạ sẽ xin cùng chết cả trong ngày hôm nay, quyết không trở về.
Trẫm nghe Thái sư và các quần thần bô lão đều không chịu bỏ Trẫm, cho nên mới đem lời Thái sư mà bạch lại với Quốc sư, Quốc sư cầm tay Trẫm mà nói:
-Phàm làm đấng nhân quân, thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, và tâm thiên hạ làm tâm của mình. Nay thiên hạ muốn đón Bệ hạ về, Bệ hạ không về sao được? Tuy nhiên sự nghiên cứu nội điển xin Bệ hạ đừng phút nào quên.
Bởi vậy Trẫm với mọi người trong triều mới trở về kinh, miễn cưỡng mà lên lại ngôi báu. Ròng rã trong mười năm trời, mỗi khi có cơ hội việc nước nhàn rỗi, Trẫm lại tụ họp các bậc kỳ đức để học hỏi đạo thiền. Các kinh điển của các hệ thống giáo lý chánh, không kinh nào là Trẫm không nghiên cứu. Trẫm thường đọc kinh Kim Cang, một hôm đọc đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, buông kinh xuống chiêm nghiệm, bỗng hoát nhiên tự ngộ...
Thái Tông là ông vua chăm học, trong bài tựa Kinh Kim Cang Tam-muội ông viết:
Trẫm lo việc chăn dân, mỗi lúc gian nan thường lăn lóc trong công việc, quên cả sớm chiều. Công việc thì có hàng vạn thứ mà thì giờ nhàn rỗi không có được bao lăm. Siêng công việc, tiếc ngày giờ, Trẫm cố học hành thêm. Chữ nghĩa thì chưa biết được bao lăm, cho nên ban đêm đến giờ khuya vẫn còn phải thức để đọc sách; học sách Nho rồi còn học kinh Phật.
Thái Tông quả là ông vua cần mẫn hiếu học, không buông mình theo dục lạc.
Chẳng những thế, Thái Tông lại là ông vua anh hùng. Năm 1257 giặc Mông Cổ xâm lăng đất nước. Thái Tông đích thân tham gia chỉ huy nhiều trận, có mặt ở cả mọi nơi nguy hiểm, khiến quân sĩ đều nức lòng chiến đấu. Kết quả quân ta đã đánh tan quân xâm lược, giặc Mông Cổ tháo thân chạy về Vân Nam vào đầu năm 1258. Đây là ông vua vừa đạo đức vừa anh hùng, làm sáng rỡ những trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam.
Sau cuộc chiến, đất nước thái bình, Trần Thái Tông nhường ngôi cho con năm 1258 lên làm Thái thượng hoàng. Từ đây Thái Tông vừa làm cố vấn cho con, vừa lo nghiên cứu tu thiền. Đến lúc vua Trần Thánh Tông đủ sức đảm đang việc nước, ông lui về lập am Thái Vi ở vùng rừng núi Vĩ Lâm cố đô Hoa Lư để an dân lập ấp và tu hành.
Thái Tông bệnh, nhân nuôi bệnh cha, Thánh Tông thưa: “Chân không và ngoan không là đồng hay khác?” Thái Tông bảo: “Hư không là một, chỉ vì tâm mình mê ngộ nên có chân và ngoan. Thí như phòng nhà mở cửa thì sáng, đóng cửa thì tối, sáng tối chẳng đồng mà phòng nhà là một.”
Hôm sau, Quốc sư Đại Đăng vào thăm thưa: “Bệ hạ bệnh chăng?” Thái Tông nói: “Tứ đại là bệnh, cái này xưa nay sanh tử không can hệ, mà dính kẹt trong bệnh hoạn sao?”
Khoảng mấy hôm sau, Thái Tông lặng thinh không nói, đuổi hết kẻ hầu hạ, đem việc nước dặn dò Thánh Tông. Thánh Tông muốn nhờ hai Quốc sư Phù Vân (Đạo Viên), Đại Đăng nói pháp xuất thế cho Thái Tông nghe. Thái Tông gằn giọng bảo: “Đến trong đây, bớt một mảy tơ dường trên thịt khoét thương, thêm một mảy tơ như trong mắt để bụi. Ba đời chư Phật bốn mắt nhìn nhau, sáu đời Tổ sư thối thân có phần. Dù Phù Vân nói huyền, Đại Đăng thuyết diệu đều là lời thừa, có ích gì đối với cái này?”
Nói xong, Ngài lặng lẽ thị tịch, nhằm năm Đinh Sửu niên hiệu Bảo Phù thứ năm, thọ sáu mươi tuổi.
Ngài còn lưu lại những tác phẩm:
1. Thiền Tông Chỉ Nam
2.. Kim Cang Tam-muội Kinh chú giải
3. Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi
4. Bình Đẳng Lễ Sám Văn
5. Khóa Hư Lục
6. Thi Tập.
Khi đó Trần Thủ Độ là Điện tiền chỉ huy sứ trong triều Lý. Bố của Trần Cảnh là Trần Thừa, cũng là một viên quan của triều Lý như Trần Thủ Độ (từng làm Nội thị khán thủ, một chức quan đứng đầu các quan hầu cận của vua nhà Lý). Cuối năm 1225, Trần Thủ Độ ép nữ hoàng nhà Lý mới lên 7 tuổi nhường ngôi cho ông.
Trong thời gian ở ngôi, Trần Thái Tông đã 3 lần đổi niên hiệu: Kiến Trung (1225-1232), Thiên Ứng Chính Bình (1232-1250) và Nguyên Phong (1251-1258).
Trước khi truyền ngôi cho con trai là Thái tử Trần Hoảng (tức vua Trần Thánh Tông), Trần Thái Tông đã lãnh đạo nhân dân Đại Việtchống lại thành công cuộc xâm lược lần thứ nhất của quân Nguyên Mông.
Truyền ngôi được 19 năm, ngày mồng 1 tháng 4 năm Đinh Sửu (tức 5 tháng 5 năm 1277), Trần Thái Tông băng hà, thọ 60 tuổi, táng tại phủ Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình ngày nay).
Vợ: Chiêu Thánh hoàng hậu Lý Chiêu Hoàng, năm 1237 giáng làm công chúa do không có con, năm 1258 gả cho Lê Phụ Trần.Thuận Thiên hoàng hậu Lý thị húy Oanh, nguyên là vợ An Sinh vương Trần Liễu. Có lẽ còn một số bà vợ khác nhưng không rõ tên tuổi, Trần Ích Tắc (1254), Trần Nhật Duật (1255) đều sinh ra sau khi Thuận Thiên hoàng hậu đã mất (1248).
Con cái
Sử sách cổ không ghi chính xác là bao nhiêu nhưng có thể thấy các con trai có:
§ Trần Trịnh (chết yểu năm 1233)
§ Tĩnh Quốc Vương Trần Quốc Khang, thực tế là con của Trần Liễu và hoàng hậu Thuận Thiên.
§ Trần Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông, con của Thuận Thiên hoàng hậu.
§ Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, con của Thuận Thiên hoàng hậu.
§ Bình Nguyên vương Trần Nhật Vĩnh
§ Chiêu Đạo Vương Trần Quang Xưởng, anh cùng mẹ với Ích Tắc.

§ Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc
§ Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật
§ Minh Hiến Vương Uất. Chơi thân với Phạm Ngũ Lão.
Các con gái gồm: Công chúa Thiên Thành (? - 9/1288) (Theo Đại Việt sử ký toàn thư, bà là trưởng công chúa nhưng không nói rõ là con ai (có lẽ là con gái lớn của Trần Thái Tông, trong khi Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép bà là con gái của Trần Thừa). Và Công chúa Thiều Dương húy Thúy (? - 4/1277): Lấy thượng vị Văn Hưng hầu, mất khi Trần Thái Tông vừa mất. Công chúa Thụy Bảo: Lấy Uy Văn vương Toại, sau lấy Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng. Công chúa An Tư: Lấy Thoát Hoan.
Các quan hệ với Trần Liễu
Trần Liễu là anh trai của vua Trần Thái Tông. Năm 1237, khi đó vợ chồng Trần Thái Tông và Chiêu Thánh hoàng hậu chưa có con nối dõi tông đường, do hoàng tử Trần Trịnh mới sinh đã chết.
Khi đó hoàng hậu Thuận Thiên, vợ của Trần Liễu, đã có thai Quốc Khang ba tháng. Trần Thủ Độ và công chúa Thiên Cực (vợ ông) bàn tính với nhau là nên mạo nhận lấy để làm chỗ dựa về sau, cho nên có lệnh lập công chúa Thuận Thiên làm hoàng hậu Thuận Thiên và giáng Chiêu Thánh làm công chúa. Vì thế, Trần Liễu đem quân bản bộ ra sông Cái làm loạn. Điều này làm cho vua Trần Thái Tông khó xử và ông đã bỏ kinh đô lên núi Yên Tử. Trần Thủ Độ phải đích thân lên núi mời, cộng với lời khuyên của sư Phù Vân, ông mới quay lại kinh đô. Hai tuần sau, Trần Liễu thế cô, không đối địch được, mới đi thuyền độc mộc giả làm người đánh cá, đến chỗ vua xin hàng. Trần Thủ Độ định chém Trần Liễu, nhưng vua Trần Thái Tông đã lấy thân mình che đỡ cho Liễu nên Thủ Độ không làm gì được. Sau đó lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang cho Liễu làm ấp thang mộc. Vì tên đất được phong, mà Liễu có tên hiệu là Yên Sinh Vương (An Sinh Vương).
Tuy nhiên, Trần Liễu vẫn ôm hận trong lòng và trước khi mất (1251) có dặn lại con trai là Trần Quốc Tuấn phải tìm cách đoạt lấy ngai vàng (Con không vì cha lấy được thiên hạ, thì cha chết dưới suối vàng cũng không nhắm mắt được). Trần Quốc Tuấn đã nhận lời cha, nhưng sau này ông đã không thực hiện lời trối trăng này.
Tôn Hiệu:Các vua nhà Trần có nhiều tôn hiệu: Tôn hiệu khi được nhường ngôi, khi đang làm hoàng đế, khi lui về làm Thái Thượng hoàng, và thụy hiệu sau khi mất. Tôn hiệu của Trần Thái Tông gồm:
Khi mới nhận ngôi từ Lý Chiêu Hoàng thì tôn hiệu là: Thiện hoàng (Hoàng đế được nhường ngôi)
Khi đang làm vua: Khải Thiên Lập Cực Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng Đế
Khi về làm Thái thượng hoàng: Hiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế
Thụy hiệu đầy đủ: Thống Thiên Ngự Cực Long Công Hậu Đức Hiền Công Hựu Thuận Thánh Văn Thần Vũ Nguyên Hiếu hoàng đế


II. TRẦN THÁNH TÔNG 


Thánh Tông (chữ Hán: 陳聖宗 ; 1240 – 1290) Ông tên thật là Trần Hoảng  (陳晃). là con trai thứ hai của vua Trần Thái Tông và bà Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng thái hậu Lý Thị. Ông sinh ngày 25 tháng Chín âm lịch năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 9 (tức 12 tháng 10 năm1240) được lập làm Đông cung thái tử.

Ngày 24 tháng Hai niên hiệu Nguyên Phong thứ 8 (tức 30 tháng 3 năm 1258), Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Hoảng, về Bắc Cung làm Thái thượng hoàng. Trần Thánh Tông lên ngôi, đổi niên hiệu là Thiệu Long. Ông xưng làm Nhân Hoàng, tôn vua cha làHiển Nghiêu Thánh Thọ Thái Thượng Hoàng Đế.Ông được xem là một vị vua nhân hậu, hòa ái đối với mọi người từ trong ra ngoài. vị Hoàng đế thứ hai của nhà Trần (sau vua cha Trần Thái Tông và trước vua conTrần Nhân Tông), ở ngôi từ năm 1258 đến 1278 và làm Thái thượng hoàng từ 1278 đến khi qua đời. Ông là một vị Hoàng đế tài năng, có công rất lớn trong công cuộc xây dựng đất nước. Dưới triều đại của ông, nước Đại Việt thái bình và quân Nguyên Mông không sang xâm lược nữa.

Vợ Ông là: Thiên Cảm phu nhân Trần thị húy Thiều (?-2/1287), con gái Trần Liễu, sau được phong là Thiên Cảm hoàng hậu. Năm 1278, Trần Nhân Tông tôn làm Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu.

. Trần Khâm, tức Trần Nhân Tông (1258-1308), con của Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu.

.Tá Thiên đại vương Trần Đức Việp (1265-1306)

§ Công chúa Thiên Thụy, chị gái Nhân Tông, mất cùng ngày với Nhân Tông (3 tháng 11 âm lịch 1308). Lấy Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn, con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn.

§ Công Chúa Bảo Châu, lấy con trai thứ của Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải

thời gian làm Thái thượng hoàng, ông đã cùng với vua con Nhân Tông lãnh đạo đất nước giành chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Ông thường nói rằng Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để anh em cùng hưởng phú quý chung

Ông là vị Hoàng đế có lòng thương dân và thân thiết với anh em trong Hoàng gia.

Truyện kể trước khi Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng thái hậu mang thai ông, vua Thái Tông nằm mơ thấy Thượng Đế trao tặng bà một thanh gươm báu

Do vậy, trong nội cung khi ăn uống nô đùa không có phân tôn ti trật tự, chỉ lúc nào có việc công, hay buổi chầu, thì mới phân thứ tự theo lẽ phép[.

Vua Thánh Tông ở ngôi 21 năm, đất nước được yên trị. Việc học hành được mở mang: Trần Ích Tắc (em trai Thánh Tông) nổi tiếng là một người hay chữ trong nước nên được cử ra mở trường dạy học để các văn sĩ học tập. Danh nho Mạc Đĩnh Chi, người đỗ trạng nguyên đời Trần Anh Tông sau này cũng học ở trường ấy

Ông còn cho Lê Văn Hưu tiếp tục biên soạn sách Đại Việt sử ký. Lê Văn Hưu đã làm được bộ sử sách gồm 30 quyển, chép từ đời Triệu Vũ Vương đến Lý Chiêu Hoàng. Việc biên tập bộ sử này được khởi đầu từ đời vua Thái Tông, đến năm Nhâm Thân (1271) đời Thánh Tông mới xong.

Trần Thánh Tông cho phép vương hầu, phò mã họp các dân nghèo để khẩn hoang. Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đây. Nhà vua xuống chiếu kén chọn văn học sĩ xung vào quan ở Quán và Các, Đặng Kế được kén làm Hàn Lâm Học sĩ, liền được thăng chức Trung Thư. Theo quy chế cũ: không phải người trong họ vua thì không được làm chức Hành khiển. Những người văn học được giữ quyền binh bắt đầu từ đây

Quan hệ với Nam Tống

Năm 1258, Trần Thánh Tông sai sứ sang Nam Tống báo việc lên ngôi và được phong làm An Nam quốc vương. Sau đó dù Nam Tống đã suy yếu trước sự uy hiếp của Mông Cổ, ông vẫn giữ quan hệ.

Để giữ tình bang giao với Đại Việt, khi Thánh Tông sai sứ mang đồ cống sang, vua Tống cũng tặng lại các sản vật của Trung Quốc như chè, đồ sứ, tơ lụa; không những gửi cho Thánh Tông mà còn tặng cả sứ giả. Việc duy trì quan hệ với Nam Tống ngoài ý nghĩa giao hảo nước lớn còn nhằm mục đích nắm tình hình phương bắc
Sau này Nam Tống bị nhà Nguyên đánh bại, phải rút vào nơi hiểm yếu, từ đó mới không còn qua lại với Đại Việt. Nhiều quan lại và binh sĩ Tống không thần phục người Mông đã sang xin nương nhờ Đại Việt. Trần Thánh Tông tiếp nhận họ, ban cho chức tước và cử người quản lý.

Quan hệ với Nguyên Mông

Trần Thánh Tông duy trì lệ cống nhà Nguyên 3 năm 1 lần, mỗi lần đều phải cống nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói và thợ thuyền mỗi hạng ba người, cùng với các sản vật như là sừng tê, ngà voi, đồi mồi, châu báu…

Vua Mông Cổ lại đặt chức quan Darughachi tại Đại Việt để đi lại giám trị các châu quận Đại Việt. Ý Mông Cổ muốn tìm hiểu nhân vật, tài sản Đại Việt để liệu đường mà đánh chiếm.

Thánh Tông bề ngoài tuy vẫn chịu thần phục, nhưng ông biết ý đồ của vua Mông, nên tiếp tục luyện binh dụng võ để phòng chiến tranh. Ông cho tuyển đinh tráng các lộ làm lính, phân quân ngũ ra làm quân và đô, bắt phải luyện tập luôn.

Từ năm 1271, Hốt Tất Liệt đặt quốc hiệu là Nguyên, trong lúc bình định nốt miền nam Trung Quốc muốn dụ vua Đại Việt sang hàng phục, để khỏi cần động binh. Cứ vài năm, Mông Cổ lại cho sứ sang sách nhiễu Đại Việt và dụ vua An Nam sang chầu, nhưng vua Trần lấy cớ thoái thác.

Năm 1272, hoàng đế nhà Nguyên cho sứ sang lấy cớ tìm cột đồng trụ của Mã Viện trồng ngày trước, nhưng Thánh Tông sai quan sang nói rằng: cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không biết đâu mà tìm nữa. Vua Nguyên bèn thôi không hỏi nữa.

Năm 1275 Trần Thánh Tông sai sứ sang nói với hoàng đế nhà Nguyên rằng:
Nước Nam không phải là nước Mường mán mà đặt quan giám trị, xin đổi quan Đại-lỗ-hoa-xích làm quan Dẫn tiến sứ.

Vua nhà Nguyên không cho, lại bắt vua Trần sang chầu. Thánh tông cũng không chịu. Từ đấy vua nhà Nguyên thấy dùng ngoại giao để khuất phục nhà Trần không được, quyết ý cử binh sang đánh Đại Việt. Nguyên Thế Tổ cho quan ở biên giới do thám địa thế Đại Việt, Trần Thánh Tông cũng đặt quan quân phòng bị.
Sau khi nhà Nguyên diệt Nam Tống (1279), Đại Việt càng đứng trước nguy cơ bị xâm lăng từ đế quốc khổng lồ này.
Năm 1277, thượng hoàng Trần Thái Tông mất. Mùa đông ngày 22 tháng 10 âm lịch năm sau (tức 8 tháng 11 năm 1278), Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con trai là hoàng thái tử Trần Khâm - tức là vua Trần Nhân Tông - lên làm thái thượng hoàng. Ông về ở Bắc cung rồi đi tu, nghiên cứu Phật học, viết sách. Trần Nhân Tông nối ngôi tôn ông là Quang Nghiêu Từ Hiếu Thái Thượng Hoàng Đế, tôn Thiên Cảm hoàng hậu (vợ Thánh Tông) làm Nguyên Thánh Thiên Cảm Hoàng thái hậu. Bầy tôi dâng tôn hiệu cho ông là Pháp Thiên Ngự Cực Anh Liệt Vũ Thánh Minh Nhân hoàng đế.
Trên danh nghĩa là Thái thượng hoàng, nhưng Trần Thánh Tông vẫn tham gia việc triều chính trong bối cảnh chuẩn bị chống xâm lược của Nguyên Mông.
Quan hệ hai bên căng thẳng và đến cuối năm 1284 thì chiến tranh bùng nổ. Thượng hoàng Thánh Tông cùng vua con Nhân Tông đặt hết niềm tin vào người anh họ là Hưng Đạo VươngTrần Quốc Tuấn, phong làm Tiết chế chỉ huy quân đội trong nước để chống Nguyên Mông. Trong hai cuộc chiến chống Nguyên Mông lần 2 và lần 3 thắng lợi có vai trò đóng góp của thượng hoàng Thánh Tông.
Năm 1289, sau khi chiến tranh kết thúc, ông lui về phủ Thiên Trường làm thơ. Các bài thơ thường được truyền lại là: Hành cung Thiên Trường, Cung viên nhật hoài cực.
Ngày 25 tháng 5 năm Trùng Hưng thứ 6 (tức 3 tháng 7 năm 1290), Thượng hoàng Trần Thánh Tông qua đời tại cung Nhân Thọ. Ông làm vua 21 năm, làm thượng hoàng 12 năm, hưởng thọ 51 tuổi, được táng ở Dụ Lăng - phủ Long Hưng (Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình ngày nay).
Đại Việt Sử ký Toàn thư của nhà Hậu Lê ca ngợi Trần Thánh Tông “trung hiếu nhân thứ, tôn hiền trọng đạo, cha khai sáng trước, con kế thừa sau, cơ nghiệp nhà Trần được bền vững”, ông sùng đạo Phật.
Sử gia Ngô Sĩ Liên ca ngợi công lao của ông: Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa chừng gặp giặc cướp biến loạn, ủy nhiệm cho tướng thần cùng với Nhân Tông giúp sức làm nên việc, khiến thiên hạ đã tan lại hợp, xã tắc nguy lại an. Suốt đời Trần không có viêc giặc Hồ nữa, công to lắm.
Thánh Tông là vị hoàng đế hiền tài; đối với anh em họ hàng thân mật, không phân biệt chúa tôi, chỉ kể tình ruột thịt đối với dân trong nước mở mang kinh tế và việc học hành… Ông lại chỉnh đốn võ bị, chống ngoại xâm, biết ngoại giao mềm mỏng, dùng kế hoãn binh trong nhiều năm. Khi chiến tranh nổ ra, ông cùng quân dân đồng cam cộng khổ để đi đến thắng lợi, có thể coi là vua tài đức toàn vẹn.
Một trong những đợt thiên tai như thế là trận lũ năm 1270 đã phá huỷ đê kè, nước tràn ngập kinh thành. Hầu hết nhà cửa, phố xá ngập tràn trong nước. Các đường phố Thăng Long ngừng trệ, nhân dân phải đi lại bằng thuyền.
Năm Mậu Dần (1278), một trận hỏa hoạn lớn đã xảy ra ở kinh thành Thăng Long. Đích thân vua Trần Thánh Tông đốc thúc chữa cháy.
Ở nước ta, vật liệu kiến trúc trước đây chủ yếu là tre gỗ. Cung điện xây bằng gạch, khung gỗ và lợp ngói thì ít xảy ra hoả hoạn hơn. Nhưng ở khu vực nhà dân, chỉ những nhà giàu có thì mới xây tường gạch, khung gỗ, lợp ngói còn đại đa số là lợp tranh, khung tre, tường đất nên rất dễ xảy ra hoả hoạn. Kinh thành Thăng Long đã từng nhiều lần xảy ra hoả hoạn, có khi đám cháy lan nhanh không dập tất kịp nên chỉ trong một thời gian ngắn đã thiêu rụi phần lớn kinh thành.
thời Trần Thánh Tông kinh thành đã nhiều lần bị cháy về đêm. Đích thân Trần Thánh Tông thường ra tận ngoại thành xem xét và đốc thúc việc chữa cháy. Có một câu chuyện khá lý thú liên quan đến việc này xẩy ra vào năm 1278. Bấy giờ có viên Nội thư gia tên là Đoàn Khung thường đi theo nhà vua. Vua sai Đoàn Khung điểm người đến chữa cháy và xem ai đến trước, ai đến sau. Đoàn Khung ấn đầu từng người bảo ngồi xuống để đếm, đếm xong tâu rõ ai là người đến trước, ai là người đến sau. Vua hỏi bằng cách nào để biết được việc này, Đoàn Khung tâu rằng, chỉ cần ấn đầu người nào mà thấy mồ hôi thấm ước và có tro bụi bám vào thì đó là người đến trước và ra sức chữa cháy, người nào không có mồ hôi và tro bụi là người đến sau. Trần Thánh Tông rất phục cách xử trí thông minh của Đoàn Khung và có ý cất nhắc. Sau này Đoàn Khung làm đến chức Kiểm pháp quan dưới thời Trần Anh Tông.

Đến tháng giêng năm Giáp Thân (1284) nhà Trần tiến hành nạo vét sông Tô Lịch.Sông Tô Lịch vừa là một thăng cảnh đẹp, nên thơ lại vừa là một con hào tự nhiên quan trọng bảo vệ kinh thành Thăng Long ở mạn phía bắc và phía tây. Chính do lẽ đó mà các triều đại phong kiến Việt Nam nhiều lần đã tiến hành nạo vét, khơi thông dòng chảy. Lần nạo vết quy mô lớn đầu tiên do nhà Trần tô chức là vào năm 1256. Gần 30 năm sau, nhà Trần tiến hành lẩn thứ hai, đó là vào đầu năm 1284.

III. TRẦN NHÂN TÔNG
    
 
Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 1258 – 1308), tên thật là Trần Khâm (陳昑) là vị vua thứ ba của nhà Trần (sau vua cha Trần Thánh Tông và trước Trần Anh Tông) trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi 15 năm (1278 – 1293) và làm Thái Thượng hoàng 15 năm. Ông là người đã thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy pháp hiệu là Đầu đà Hoàng giác Điếu ngự. Ông được sử sách ca ngợi là một trong những vị vua anh minh nhất trong lịch sử Việt Nam.
Trần Nhân Tông là con trai trưởng của vua Trần Thánh Tông với Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu Trần Thị Thiều, sinh ngày 11 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (1258).
Vợ Ông là Bảo Thánh hoàng hậu hay Khâm Từ Bảo Thánh hoàng thái hậu (?13/9/1293), con gái Trần Hưng Đạo vàTuyên Từ hoàng hậu hay Tuyên Từ thái hậu (?-19/8/1318)
 Con trai Ông là: Hoàng Thái Tử  Anh Tông Trần Thuyên (con của Bảo Thánh Hoàng Hậu) và Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn (29/1/1281-3/1328)
Con gái là Công chúa Huyền Trân và Công chúa Trần Khắc Hãn (người con thứ tư)
âm lịch năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiệu Long năm thứ 1 (1258).
Ngày 22 tháng 10 âm lịch năm 1278, Trần Nhân Tông được vua cha là Trần Thánh Tông nhường ngôi.
Bấy giờ nhà Nguyên sai sứ sang hạch điều này, trách điều nọ, triều đình cũng có nhiều việc bối rối. Nhưng nhờ có Thượng hoàng Thánh Tông còn coi mọi việc và các quan trong triều nhiều người có tài trí, Nhân Tông lại là một vị vua thông minh và quả quyết, mà trong nước từ vua quan đến dân chúng đều một lòng, một dạ.
Những nǎm đầu cầm quyền, Trần Nhân Tông đã phải trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông. Ông đã cùng vua cha Trần Thánh Tông, mở hội nghị quân sự Bình Than, phân công các tướng lĩnh đi đóng giữ những nơi hiểm yếu để chuẩn bị đỡ các mũi tiến công của địch (1282). Ông lại cùng với cha tổ chức hội nghị Diên Hồng (1284) để cùng nhất trí trẻ già, một lòng quyết đánh. Chưa bao giờ tinh thần đánh giặc ở nước ta được phát triển mạnh như dưới thời vua Trần Nhân Tông. Cả nước sục sôi chuẩn bị, quân sĩ tỏ thái độ quyết không đội trời chung với địch. Và quả nhiên quân ta đã ra quân là chiến thắng còn địch thì thất bại thảm hại. Trận Bạch Đằng (9-4-1288) đại thắng đã đè bẹp ý đồ bành trướng của đế quốc Nguyên Mông, đế quốc cường bạo nhất hồi bấy giờ, đã chiến thắng từ Âu sang A', song chúng không làm gì xoay chuyển nổi tình thế ở Việt Nam. Chiến công này là của toàn dân, của những vị nguyên soái, đại tướng tài giỏi như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão v.v... Song công lao đầu thuộc về hai cha con Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông. Trong cả 2 lần kháng chiến chống quân Nguyên Mông hai ông đã trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn dân lãnh đạo nhân dân Đại Việt vượt qua bao khó khǎn gian khổ, đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi huy hoàng.
Ngoài ra, quân Ai Lao thường hay quấy nhiễu biên giới, bởi vậy năm 1290 nhà vua phải thân chinh đi đánh dẹp.
Nhà vua từng nói: ‎" Một tấc đất của tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác ". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu.
Niên hiệu
Thiệu Bảo (1278 - 1285)
Trùng Hưng (1285 – 1293
Xuất gia: Sau khi nhường ngôi cho con trai là Trần Anh Tông, ông xuất gia tu hành tại cung Vũ Lâm, Ninh Bình, sau đó rời đến Yên Tử (Quảng Ninh) tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, lấy đạo hiệu là Điều Ngự Giác Hoàng (hay Trúc Lâm đầu đà). Ông là tổ thứ nhất của dòng Thiền Việt Nam này. Về sau ông được gọi cung kính là “Phật Hoàng” nhờ những việc này.
 Cũng trong năm 1299, vua Anh Tông sắc cho ấn hành cuốn "Phật Giáo Pháp Sự Đạo Tràng Công Văn Nghi Thức" để phổ biến trong toàn quốc, ghi dấu ngày thượng hoàng Nhân Tông xuất gia.
Niên hiệu Hưng Long thứ XII (1304), vua lấy đạo hiệu là Trúc Lâm Đầu Đà Điều Ngự Giác Hoàng, rồi cùng với đệ tử là tôn giả Pháp Loa và mười đồ đệ đi khắp nẻo thôn quê giảng pháp, khuyên dân bỏ mê tín, hủy dâm từ, thực hành giáo lý Thập Thiện,( Trong kinh "Những Điều Phật Dạy", nguyên bản chữ Hán: Phật Thuyết Tứ Thập Nhị Chương Kinh.
Điều thứ ba.
Đức Phật dạy rằng: Chúng sinh có mười (10) việc Thiện và mười (10) việc ác. Những gì là mười? Đó là: Ba thuộc về Thân, bốn thuộc về khẩu, ba thuộc về ý.
Ba việc thuộc về thân là: giết hại, trộm cắp, tà dâm.
Bốn việc thuộc về khẩu là: nói lời chia rẽ, nói độc ác, nói giận dữ, nói thêu dệt.
Ba việc thuộc về ý là: Tham lam, giận dữ, si mê.
Mười việc làm ấy không thuận theo thánh đạo nên gọi là ác.
Mười việc làm ấy chấm dứt, gọi là Thiện.)
 với mục đích xây dựng một xã hội đạo đức "nhân gian tịnh độ".
Sau đó Giác Hoàng trở về chùa Sùng nghiêm, ở Linh Sơn, mở khoá dạy thiền:
Mở đầu Pháp hội, ngài nói: Đức Thích Ca Văn Phật, vì một đại sự nhânn duyên, thị hiện xuống cõi đời, ròng rã ngót nửa thế kỷ "hoằng pháp độ sinh", nhưng Phật vẫn tự nhận là "chưa hề nói một chữ…"
Nay ta lên ngôi tòa này, chẳng biết phải nói gì với các ngươi?
Một vị tăng đứng dậy, chắp tay bạch:
- Thế nào là Phật?
Ngài đáp:
- Chấp theo lối cũ là không đúng.
Lại nói tiếp:
- Thế nào là Pháp?
Ngài đáp:
- Chấp theo lối cũ là không đúng.
Hỏi tiếp:
- Thế nào là tăng?
Ngài đáp:
- Chấp theo lối cũ là không đúng.
Lại hỏi:
- Cứu cánh sẽ ra sao?
Ngài đáp:
- Tám chữ (Tám chữ: "Sinh diệt diệt dĩ,
                      Tịch diệt vi lạc"
(Sinh và diệt đã chấm dứt, đó là sự vắng lặng anvui của Niết Bàn).
Kinh Đại Niết Bàn, phẩm Thanh Hạnh, dẫn tích Bồ Tát Tuyết Sơn hy sinh tính mạng cho quỷ la Sát ăn thịt để xin được gnhe hai câu sau của bài kệ, tức hai câu "Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt vi lạc".
Trong bộ Thủy Lục Toàn Khoa có câu "Trượng bán ngôn nhi tam chướng tiêu trừ, bằng tứ cú nhi lục trần thanh tịnh". Dưới đây là toàn bài kệ (4 câu):
"Chư hành vô thường
Thị sinh diệt pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc".)
Cuối năm 1304, vua Anh Tông cung thỉnh Giác Hoàng về kinh đô Thăng Long xin thụ Bồ Tát Giới Tại Gia. Năm 1306, Giác Hoàng vào tu trong am Ngọc Vân, lấy pháp hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ.
Niên hiệu Hưng Long thứ XVI (1308), ngày 1 tháng giêng năm Mậu Thân, Giác Hoàng chính thức ủy cử tôn giả PHÁP LOA, đảm nhận chức trụ trì chùa báo Ân, ở Siêu Loại (Bắc Ninh).[134]
Tháng 4 Giác Hoàng đích thân tới chùa Vĩnh nghiêm ở Lạng Giang (Bắc Giang) chủ trì và giảng Truyền Đăng Lục và bảo quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa cho chư tăng kiết hạ tại đây.
Sau ngày làm lễ "tự tứ", kết thúc ba tháng hạ, Giác Hoàng trở lại núi Yên Tử, và cho hết những tịnh nhân xuống núi, chỉ giữ lại mười vị thị giả theo ngài lên ở trên am Tử Tiêu và giảng riêng Truyền Đăng Lục cho tôn giả Pháp Loa. Giác Hoàng dạo khắp các hang động, lúc quá mệt, vào nghỉ ở Thạch Thất. Bảo Sát bạch:
- "Tôn Đức xuân thu đã cao, mà xông pha mưa nắng lỡ khi nóng, lạnh bất thường thi mệnh mạch Phật pháp biết nương tựa vào đâu?"
Giác Hoàng bảo:
- "Thời tiết đã đến, ta chỉ còn đợi ngày viên tịch nữa thôi".
Ngày 5 tháng 10, bỗng có gia đồng của chị là công chúa Thiên Thụy lên tâu rằng:
- "Công chúa bị đau nặng, chỉ mong được diện kiến Tôn Đức trước khi nhắm mắt".
Giác Hoàng bùi ngùi than:
- "Thời tiết mà thôi vậy!"
Thị sinh diệt pháp
Sinh diệt diệt dĩ
Tịch diệt vi lạc".)
Cuối năm 1304, vua Anh Tông cung thỉnh Giác Hoàng về kinh đô Thăng Long xin thụ Bồ Tát Giới Tại Gia. Năm 1306, Giác Hoàng vào tu trong am Ngọc Vân, lấy pháp hiệu là Trúc Lâm Đại Sĩ.
Niên hiệu Hưng Long thứ XVI (1308), ngày 1 tháng giêng năm Mậu Thân, Giác Hoàng chính thức ủy cử tôn giả PHÁP LOA, đảm nhận chức trụ trì chùa báo Ân, ở Siêu Loại (Bắc Ninh).[134]
Tháng 4 Giác Hoàng đích thân tới chùa Vĩnh nghiêm ở Lạng Giang (Bắc Giang) chủ trì và giảng Truyền Đăng Lục và bảo quốc sư Đạo Nhất giảng kinh Pháp Hoa cho chư tăng kiết hạ tại đây.
Sau ngày làm lễ "tự tứ", kết thúc ba tháng hạ, Giác Hoàng trở lại núi Yên Tử, và cho hết những tịnh nhân xuống núi, chỉ giữ lại mười vị thị giả theo ngài lên ở trên am Tử Tiêu và giảng riêng Truyền Đăng Lục cho tôn giả Pháp Loa. Giác Hoàng dạo khắp các hang động, lúc quá mệt, vào nghỉ ở Thạch Thất. Bảo Sát bạch:
- "Tôn Đức xuân thu đã cao, mà xông pha mưa nắng lỡ khi nóng, lạnh bất thường thi mệnh mạch Phật pháp biết nương tựa vào đâu?"
Giác Hoàng bảo:
- "Thời tiết đã đến, ta chỉ còn đợi ngày viên tịch nữa thôi".
Ngày 5 tháng 10, bỗng có gia đồng của chị là công chúa Thiên Thụy lên tâu rằng:
- "Công chúa bị đau nặng, chỉ mong được diện kiến Tôn Đức trước khi nhắm mắt".
Giác Hoàng bùi ngùi than:
- "Thời tiết mà thôi vậy!"
rồi xuống núi cùng với một thị giả đi hầu. Ngày mồng mười thì tới kinh, thăm chị xong, ngày rằm lên đường về núi, đêm nghỉ ở chùa Siêu Loại. Sáng dậy đi bộ ghé ngang qua chùa làng Cổ Châu, và đề bài thơ:
"Thế số nhất tức mặc,
thời tình lưỡng hải ngân.
Ma cung hồn quản thậm,
Phật quốc bất thăng xuân".
Dịch:
Kiếp người một hơi thở!
Tình đời đôi mắt buồn…
Cung ma nhiều rối rắm
Cõi phật vui nào hơn.
Ngày 17, nghỉ ở chùa Sùng Nghiêm, núi Linh Sơn, hoàng thái hậu Tuyên Từ thỉnh về am Bình Dương phó trai. Giác Hoàng vui vẻ nói: "Đây là buổi cúng dường cuối cùng"!
Ngày 18 lại lên đường, tới chùa Tú Lâm, ở ngọn An Sinh, Giác Hoàng bị nhức đầu, bảo hai vị tỳ khưu Tử Doanh và Hoàn Trung rằng: "Ta muốn lên đỉnh Ngọa Vân mà chân yếu quá, không thể lên nổi, phải làm sao?"  -Hai vị tỳ khưu bạch: "Hai chúng con xin đỡ ngài đi". Vừa đến am Ngọa Vân, Giác Hoàng cãm ơn hai vị và nói: "quí vị xuống núi tu hành đi, chớ coi thường sinh tử".
Ngày 19, Giác Hoàng bảo thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu, núi Yên Tử, gọi Bảo Sát đên gấp.
Ngày 20, Bảo Sát đeo tay nải ra đi, đến Doanh Tuyền bỗng thấy một vầng mây đen từ ngọn Ngọa Vân bay qua núi Lỗi thì dừng lại. Bỗng nhiên nước dâng lai láng, cao đến vài trượng, khi nước rút xuống, thấy hiện hai con rồng, đầu như đầu ngựa, ngóa cao hơn một trượng, hai mắt sáng như sao, chỉ trong khoảnh khắc, rồi biến mất. Chiều tối, Bảo Sát phải nghỉ lại ở sườn núi, đêm chiêm bao thấy hiện những điềm bất thường.
Ngày 21, Bảo Sát đến am Ngọa Vân. Giác Hoàng trông thấy cười và nói: "Ngươi sao đến chậm thế? Ta sắp đi đây. Trong Phật Pháp có điều nào còn ngờ thì hãy nói gấp đi".
Bảo Sát thưa: "Khi đại sư Mã Tổ bệnh, vị viện chủ hỏi: Những ngày gần đây Tôn Đức thế nào?" Mã Tổ bảo: "Ngày thấy Phật, đêm thấy Phật. Vậy ý ấy thế nào?"
Giác Hoàng lớn tiếng: "Ngu đế và Tam hoàng là vật gì?"
Bảo Sát nói: "Hoa nở sum suê màu rực rỡ, tre phương nam với gỗ phương bắc phải hiểu thế nào?"
Giác Hoàng nói: "Ngươi là kẻ ngu".
Bảo Sát liền thôi.
Suốt mấy hôm trời đất mù mịt tối tăm, gió bảo nổi lên, mưa tuyết làm ướt đẫm cây cỏ; vượn, khỉ liệng quanh am gào khóc thê thảm, chim núi cùng hót giọng buồn rầu…
Ngày 1 tháng 11, vào lúc nửa đêm, tự nhiên trời quang mây tạnh, sao sáng đầy trời. Giác Hoàng gọi Bảo Sát:
"-Bây giờ là giờ gì?"
Bảo Sát thưa: "Giờ tý".
Giác Hoàng đưa tay vén màn nhìn ra ngoài và nói: "Đã đến giờ ta đi đây".
Bảo Sát hỏi: "Tôn Đức đi đâu bây giờ?"
Giác Hoàng nói bài kệ:
"Nhất thiết pháp bất sinh,
Nhất thiết pháp bất diệt.
Nhược năng như thị giải,
Chư Phật thường hiện tiền
Hà khứ lai chi hữu dã".
(Các pháp vốn không sinh
Các pháp vốn không diệt
Nếu hiểu rõ như thế
Chư Phật thường hiện tiền…
Chẳng đi đâu mà cũng chẳng lại đâu cả).
Bảo Sát hỏi thêm: "Còn khi bất sinh bất diệt thì sao?"
Giác Hoàng bỗng nhiên xoè bàn tay và nói:"Đừng có ngủ mơ".
Nói xong ngài nằm trên tòa sư tử mà hóa, trụ thế 51 nămTôn giả Pháp Loa rước ngọc thể lên hỏa đàn. Tương truyền: "Khi đó có hương thơm tỏa ra và thấy những tiếng nhạc ở trên trời, mây ngũ sắc tụ lại thành hình cái tàn để che nơi hỏa thiêu Thượng hoàng Nhân Tông. Tôn giả Pháp Loa thu nhặt ngọc cốt: ngoài xương (ngọc cốt) còn thấy những xá lợi ngũ sắc. Sách Tam Tổ Thực Lục ghi là sau khi hỏa thiêu có thu nhập được 3.000 xá lợi. Nhưng sách Tam Tổ Hành Trạng ghi là có 1.000 xá lợi. Sau lúc đó thì vua Trần Anh Tông và đình thần đến n

núi Yên Tử để chịu tang. Theo sách Việt Nam Phật Giáo Sử Lược HT Mật Thể ghi: vua Anh Tông cùng đình thần đem long giá rước ngọc cốt về an thổ ở Đức Lăng và xây tháp ở chùa Vân Yên trên núi Yên Tử, lấy tên là "Huệ Quang Kim Tháp" và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật". trong sách  Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép: tên thụy hiệu của Thượng hoàng Nhân Tông là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hoá Dân Long Từ Hiển Huệ Thánh Văn Thần Vũ nguyên Minh Huệ Hiếu Hoàng Đế".
Phổ Minh Tự nghiên cứu những tài liệu Tam Tổ Thực Lục, Tam Tổ hành Trang, Trúc lâm Tông Chỉ, Nam ông Mộng Lục và Tan Tổ Hành Trạng thì lễ táng của Trần Nhân Tông được tổ chức tại Hà Nội. Nhưng theo sách Nam ông Mộng Lục thì lễ hỏa táng ngọc thể của Trần Nhân Tông được tổ chức ở gần am Ngọa Vân.
"Trong lễ tang có hoàng tử Oanh (cũng gọi là Mạnh), lên 9 tuổi, đứng ở gần vua Anh Tông. Sách Nam Ông Mộng Lục chép là xá lợi của Thượng hoàng Nhân Tông đã bay đến ẩn trong áo của một hoàng tử con vua Trần Anh Tông và chiếu sáng lên. Vua Anh Tông quỳ lạy xin tuân lệnh, sau khi đó thì ánh sáng của xá lợi biến đi. Vua Anh Tông đã chọn vị hoàng tử đó làm đông cung thái tử. Sách Tam Tổ Thực Lục cũng kể sự việc này và có ghi là vua Trần Anh Tông đã khóc và không còn nghi ngờ các xá lợi. Vua Anh Tông truyền để ngọc cốt trong bảo tháp xây trên lăng của Thượng hoàng Nhân Tông và những xá lợi chia làm hai phần đựng trong bình đựng di cốt. Sau lễ tang, ngọc cốt được đem chôn ở Đức Lăng, một phần xá lợi đặt ở tháp trong lăng (nhưng đặt ở kim tháp trong chùa Vân Yên trên núi Yên Tử).
"Các tài liệu trên đều không ghi ngày tháng cử hành lễ tang, Thượng hoàng Nhân Tông, nhưng trong Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, tập VI, có ghi tháng 9 âm lịch, mùa thu năm 1310, an táng linh cửu Nhân Tông ở Đức Lăng, phủ Long Hưng, tỉnh Hưng Yên ngày nay.
"Như vậy theo Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục thì Thượng Hoàng Nhân Tông mất ở chùa núi Yên Tử vào tháng mười một âm lịch năm Mậu Thân (1308) và mãi tới tháng chín âm lịch năm Canh Tuất (1310) mới làm lễ an táng linh cữu ở Đức Lăng, nghĩa là linh cữu của Thượng hoàng Nhân Tông được an táng.
"Trong sách Tam Tổ Thực Lục chỉ ghi có hai nơi chôn ngọc cốt và xá lợi Thượng hoàng Nhân Tông là tháp Đức Lăng và tháp ở chùa Vân Yên, mà không nói phần xá lợi thứ hai được để ở đâu. Theo L. BEZACIER thì phần xá lợi này phải để ở tháp xây ở trước chùa Phổ Minh, làng Tức Mặc, tỉnh Nam Định
Theo Việt Sử Tiêu Án:  "Khi rước di hài vua Nhân Tông về táng ở Đức Lăng, lúc tử cung (quan tài của vua gọi là tử cung) sắp đưa ra, người xem đông chật cả cung, phải dùng đến lính ngự lâm để mởi lối đi cũng không được. Vua (Anh Tông) sai Trịnh Trọng Tử dẹp mở đường. Trọng Tử đến sân rồng gọi đạo quân Long Dực hát khúc long ngâm, dân chúng kéo đến đó xem; cung điện mới rộng chỗ đi được, lại lấy những câu hát ở dọc đường, phổ vào khúc hát, làm cho có tiếng hát liền mãi, không cần phải truyền bảo gì, mà khi đi lên, đi xuống, quanh chuyển, không có lo nghiêng lệch nữa. người đời bấy giờ khen là có xảo tứ.
"Xá lợi của vua Nhân Tông chia làm hai phần: một đưa về táng ở Đức lăng, một để ở tháp Yên Tử. Có thầy Tăng chùa siêu Loại là Trí Không đốt tay cháy từ bàn tay đến cánh tay, cứ ngồi nghiễm nhiên, không đổi sắc mặt. Vua Anh Tông hỏi, trả lời rằng: "Thần đốt đèn đó". Lửa tắt, thầy về tăng viện ngủ kỹ, đến khi thức dậy chỗ phỏng lên đều khỏi cả. Đến lúc xá lợi vua Nhân Tông đưa để ở bảo tháp, thầy liền lên núi hầu hạ" (Sđd trang 225, 226).

Có sự tích còn kể rằng trước khi tịch diệt về cõi niết bàn, người bảo mọi người hãy xuống núi, sau đúng 100 ngày mới đến được đến gần, thấy núi thơm thì hãy hỏa táng thi hài, nếu không thì thôi. Mọi người tuân theo, đúng 100 ngày sau tới lưng chừng núi đã thấy thoang thoảng mùi thơm. Người vẫn nằm nghiêng dáng sư tử một mầm trúc non xanh mọc xuyên qua đùi trái.
Ông qua đời ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1308, được an táng ở lăng Quy Đức, phủ Long Hưng, xá lỵ cất ở bảo tháp am Ngọa Vân; miếu hiệu là Nhân Tông, tên thụy là Pháp Thiên Sùng Đạo Ứng Thế Hóa Dân Long Từ Hiển Hiệu Thánh Văn Thần Võ Nguyên Minh Duệ Hiếu Hoàng Đế.
nhường ngôi 5 năm  xuất gia 8 năm, thọ 51 tuổi, qua đời ở am Ngoạ Vân núi Yên Tử, đưa về táng ở Đức lăng (nay thuộc tỉnhThái Bình).
"Vua Anh Tông thấy thượng hoàng tu khổ hạnh, trèo đèo leo núi vất vả, trong lòng không yên, thường kiếm cớ ngăn trở, nhưng ngài cương quyết không bỏ.
Tháng 8 năm Hưng Long thứ 9 (1301) Anh Tông sai ngự sử Đoàn Nhữ Hài lên núi Yên Tử đón thượng hoàng về Tức Mặc dự lễ giỗ đầu đức Hưng Đạo Đại Vương. Giỗ xong, vua tâu xin ngài đi chơi nước Chiêm Thành xem chỗ Đức Phật Nam Hải Quán Âm giáng sinh và phong cảnh nước Chiêm. Ngài bằng lòng.
Tương truyền: "Cách đây khoảng 1.200 năm, đời vua Thuận Đế nhà Đông Hán, Đức Phật Nam Hải Quán Âm giáng sinh làm con gái vua Trang Vương nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), di tích còn lưu lại ở thành Phật Thệ.
Tháng 9 năm ấy, vua sai nhân huệ vương Trần Khánh Dư, ngự sử trung tán Đoàn Nhữ Hài, tướng quân Phạm Ngũ Lão đem ba nghìn quân ngự lâm hộ giá thượng hoàng sang du ngoạn nước Chiêm. Vua Chiêm Thành Chế mân tiếp được sắc thư vua ta, sai các quan văn võ đưa binh sĩ nghi tượng ra giáp giới đón. Còn vua Chiêm thân đón ở thành Phật Thệ. Thượng hoàng đi gần hai tháng đến thành Trà Kiệu, vua Chiêm nghinh tiếp hết sức cung kính tôn nghiêm.
Hơn hai tháng ở nước Chiêm, thượng hoàng đi xem khắp mọi chùa chiền, nơi cổ tích Phật Nam Hải Quán Âm, các tháp cổ và phong cảnh kinh đô. Ngài đi từ Trà Kiệu tới Trà Bàn, qua xem tháp Mỹ Sơn, tháp Chùa, tháp Chợ và khảo cứu Phật tích suốt 72 tháp Đông Dương.
Thành Đồ Bàn dựng từ thế kỷ thứ 9, chu vi tám dặm, ra vào có 9 cửa, chung quanh xây bao thành gạch. Ở trong có những cung điện hùng vĩ đều quay mặt hướng Nam. Lại có tám ngôi chùa rất lớn và những tháp cao chót vót. Chùa chính có tượng Đức Phật Nam Hải Quán Âm nghìn mắt nghìn tay, tượng Văn Thù cưỡi sư tử xanh, tượng Phổ Hiền cưỡi voi trắng tạc bằng đá quý. Phía sau kinh thành có sông bao bọc chảy thông ra biển.
Khi thượng hoàng từ biệt Chiêm Thành, cảm lòng người Chiêm tiếp đón long trọng, ngài hứa gả công chúa Huyền Trân là con gái út cho Chế Mân để tình ban giao hai nước thêm bền hặt. Chế Mân lạy tạ cảm ơn, sai các quan đi tiễn đến tận biên giới."
                           (Sự Tích Trúc Lâm Tam Tổ, Đỗ Trọng Huề,



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét