Thứ Ba, 8 tháng 6, 2010

NGÔ PHÙ SAI, VIỆT VƯƠNG CÂU TIỄN, PHẠM LÃI

I. NGÔ PHÙ SAI
  
Ngô Phù Sai (chữ Hán chính thể: 吳夫差) trị vì: 495 TCN-473 TCN) hay Ngô Vương Phù Sai (吳王夫差), tên thật là Cơ Phù Sai, là vị vua thứ 25 nước Ngô thời Đông Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Lên ngôi
Phù Sai là con của Ngô vương Hạp Lư– vua thứ 24 của nước Ngô.
Thời còn là thái tử, Phù Sai đã được vua cha sai cầm quân đi đánh nước Sở năm 504 TCN. Ông ra quân thắng trận, chiếm được đất Phiên. Sở Chiêu vương bị nước Ngô uy hiếp trong nhiều năm, sợ hãi phải dời bỏ Sính đô đi đóng đô ở đất Nhược.

Năm 496 TCN, Hạp Lư đi đánh nước Việt, bị trúng tên tử trận. Trước khi qua đời, Hạp Lư gọi Phù Sai lại dặn nhất định phải báo thù. Phù Sai lên nối ngôi vua, tích cực luyện quân để đánh Việt.

Phù Sai nhớ thù cha, chú trọng luyện quân để báo thù. Ông phong đại phu Bá Hi làm thái tể, phụ trách việc tập dượt quân lính.

Năm 494 TCN, Phù Sai mang quân đi đánh Việt. Quân Ngô đại phá quân Việt ở Phù Tiêu. Vua Việt là Câu Tiễn chỉ còn 5000 quân rút lên núi Cối Kê. Thế cùng, Câu Tiễn sai Văn Chủng mang của báu đi đút lót cho thái tể Bá Hi, nhờ nói hộ với Phù Sai cho giảng hòa. Khi Văn Chủng đến gặp Phù Sai giảng hòa. Ngũ Viên phản đối giảng hòa nhưng Bá Hi đồng tình; cuối cùng Phù Sai theo ý kiến của Bá Hi, cho Câu Tiễn giảng hòa.

Câu Tiễn giao quyền chính cho Văn Chủng, tự mình làm con tin ở nước Ngô, cùng Phạm Lãi hầu hạ Phù Sai. Câu Tiễn hết sức cung kính tỏ ý thần phục và tìm nhiều cách lung lạc Phù Sai khiến ông tin tưởng sự khuất phục của nước Việt. Năm 492 TCN, Phù Sai thả Câu Tiễn về nước, bất chấp sự phản đối của Ngũ Viên. Câu Tiễn sai người đút lót cho Bá Hi, nhờ nói giúp về sự trung thành của mình khiến Phù Sai mất cảnh giác. Câu Tiễn âm thầm nuôi dưỡng lực lượng đợi lúc báo thù mà Phù Sai không để ý đến.
Tranh bá: Đánh Tề
Năm 489 TCN, Phù Sai nghe tin Tề Cảnh công qua đời, vua mới còn yếu, các quan đại thần nước Tề tranh giành quyền lực, bèn mang quân đánh Tề. Ngũ Viên can Phù Sai không nên đánh Tề mà nên chú ý về Câu Tiễn đang nuôi dưỡng sức lực để trả thù nước Ngô.

Phù Sai không nghe theo, mang quân đi đánh Tề, đại phá quân Tề ở Ngải Lăng. Quân Ngô tiến đến đất Tăng, đòi Lỗ Ai công nộp 100 con bò, sau đó chiếm lấy đất đai phía nam nước Lỗ và nước Tề.
Năm 487 TCN, Ngô Phù Sai lại đánh nước Lỗ. Lỗ Ai công phải thần phục, ăn thề xin giảng hòa.

Năm 486 TCN và 485 TCN, Phù Sai lại 2 lần mang quân đánh Tề. Việt Câu Tiễn thấy vậy mang dân chúng tới tỏ ý thần phục và dâng lễ vật. Phù Sai vui mừng vì uy thế với chư hầu của mình, không nghe theo lời cảnh báo của Ngũ Viên.

Phù Sai giận Ngũ Viên can gián việc phải cảnh giác với Việt mà ngừng đánh Tề, bèn sai Ngũ Viên đi sứ nước Tề. Ngũ Viên đoán biết nước Ngô sẽ bị diệt bèn gửi con ở lại cho đại phu họ Bão nước Tề. Phù Sai biết chuyện cho rằng Ngũ Viên phản Ngô bèn đưa kiếm bắt Ngũ Viên tự sát. Trước khi chết Ngũ Viên tin chắc Việt sẽ diệt Ngô.
Năm 484 TCN, nhân họ Bão giết Tề Điệu công, Phù Sai lại mang quân từ biển tiến lên phía bắc đánh Tề, nhưng lần này quân Ngô bị quân Tề đánh bại.
Hội chư hầu
Dù thất trận ở Tề, uy thế nước Ngô vẫn rất lớn. Đầu năm 483 TCN, Phù Sai họp chư hầu ở Hoằng Trì, muốn tranh ngôi bá chủ của nước Tấn. Trong khi hội chư hầu chưa xong thì tháng 6 năm đó, Việt Câu Tiễn mang quân đánh úp nước Ngô. Thế tử Cơ Hữu ra cự bị quân Việt bắt sống và tự sát. Quân Việt tiến vào nước Ngô.

Tin thất trận báo đến Hoằng Trì. Phù Sai nghe tin có người tiết lộ tin bại trận ra ngoài bèn chém chết. Ông vẫn cố tranh ngôi bá với Tấn Định công. Cuối cùng nước Tấn yếu thế hơn, Tấn Định công phải thừa nhận Phù Sai ở hàng trên. Hai vua cùng ăn thề.

Phù Sai không vừa lòng với nước Tống định mang quân đánh nhưng Bá Bì khuyên nên trở về vì tình hình nguy cấp. Phù Sai nghe theo.
Mất nước
Nước Ngô bị quân Việt xâm lấn, mất thế tử, khí thế giảm sút. Quân Ngô theo Phù Sai đi đường xa mỏi mệt, bị quân Việt đánh bại. Phù Sai phải mang nhiều của cải sai sứ sang giảng hòa với nước Việt. Tuy được giảng hòa nhưng nước Ngô đã suy yếu hẳn trong khi nước Việt vẫn không ngừng lớn mạnh.

Năm 478 TCN, Câu Tiễn lại mang quân đánh Ngô. Hai bên giáp trận ở Lập Trạch. Những người mạnh khỏe, hăng hái đều đã chết ở nước Tề, nước Tấn. Vì vậy quân Ngô đại bại.

Năm 476 TCN, Câu Tiễn lại đánh Ngô, quân Ngô lại bại trận. Năm 475 TCN, Câu Tiễn lại mang quân đánh, vây nước Ngô. Đến tháng 11 năm 473 TCN, quân Việt đại phá quân Ngô. Ngô Phù Sai sau nhiều lần bại trận không còn khả năng kháng cự, bị quân Việt vây hãm trên núi Cô Tô.

Ông sai Công Tôn Hùng sang xin Câu Tiễn giảng hòa như ông đã tha Câu Tiễn trước đây. Câu Tiễn định nghe theo nhưng Phạm Lãi phản đối, nhắc lại chuyện bại trận ở Cối Kê của nước Việt. Vì vậy Câu Tiễn không cho Ngô giảng hòa, định chiếm hết nước Ngô và đày ông ra đất Dũng Đông, cho 100 nhà ăn lộc.

Phù Sai thấy nhục nhã không thể chấp nhận. Ông hối hận không nghe lời Ngũ Viên trước đây, dùng dao cắt cổ mà chết

Phù Sai ở ngôi tất cả 23 năm, không rõ bao nhiêu tuổi. Ông được Câu Tiễn sai người mang chôn cất. Nước Ngô bị nước Việt tiêu diệt. Phù Sai trở thành vị vua cuối cùng của nước Ngô.

Trong văn học
Ngô vương Phù Sai là một nhân vật được đề cập trong tiểu thuyết Đông Chu Liệt Quốc, xuất hiện từ hồi 79 đến hồi 83. Sự nghiệp của Phù Sai từ khi báo thù nước Việt tới khi bị Câu Tiễn tiêu diệt được mô tả sát thực với chính sử.

Tuy nhiên, về gia đình ông, Đông Chu liệt quốc có thông tin khác, theo đó Phù Sai không phải con trai mà là cháu nội của Hạp Lư. Cha Phù Sai là thế tử Ba – con trai Hạp Lư. Vì thế tử Ba chết trước Hạp Lư nên ngôi vua được truyền cho Phù Sai. Phù Sai được Đông Chu liệt quốc xác định lên ngôi năm 26 tuổi và như vậy qua đời khi 49 tuổi.
Việc sao nhãng chính sự của Phù Sai còn được Đông Chu Liệt Quốc mô tả qua việc say đắm mỹ nhân Tây Thi mà Câu Tiễn dâng cho ông. Chuyện Tây Thi trong cung Ngô Phù Sai trở thành điển tích nổi tiếng của Trung Quốc, được biết đến rộng rãi tại các nước Á Đông.
II. VIỆT VƯƠNG CÂU TIỄN
Một hình ảnh của Câu Tiễn.    Tập tin:Goujian sword and inscript detail.svg
Việt Vương Câu Tiễn (chữ Hán: 越王句踐; trị vì 496 TCN - 465 TCN) là vua nước Việt (ngày nay là Thượng Hải, bắc Chiết Giang và nam Giang Tô) cuối thời kỳ Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, một trong Ngũ Bá. 
Nguồn gốc
Theo Sử ký, Câu Tiễn là dòng dõi vua Thiếu Khang nhà Hạ, tên họ là Tự Câu Tiễn (姒句踐). Tổ tiên của ông là con thứ hai của Thiếu Khang, em vua Hạ Trữ.
Câu Tiễn là con trai của Doãn Thường, cháu hai mươi đời của vua Thái Khang, dòng dõi vua Vũ nhà Hạ.
Vua bại trận
Năm 496 TCN, Doãn Thường qua đời, Câu Tiễn lên nối ngôi. Hay tin, vua Ngô Hạp Lư bèn đem quân đánh Việt. Câu Tiễn mang quân ra chống cự. Ông sai những kẻ sĩ quyết liều chết ra khiêu chiến. Họ dàn thành ba hàng, tiến đến trận tuyến quân Ngô, thét lên rồi tự đâm vào cổ. Quân Ngô đang mải nhìn thì Câu Tiễn thúc quân Việt thừa cơ đánh úp. Quân Việt đại thắng quân Ngô ở thành Huề Lý. Quân Việt bắn trúng Ngô Hạp Lư.
Quân Ngô thua to, bỏ chạy về nước. Hạp Lư bị trúng tên trước khi chết, dặn con là Phù Sai phải báo thù nước Việt. Sau đó Phù Sai lên ngôi vua.

Ba năm sau Câu Tiễn được tin Ngô Phù Sai ngày đêm luyện quân sĩ, sắp sửa đánh Việt để trả thù. Ông muốn mang quân ra đánh trước khi quân Ngô xuất trận. Phạm Lãi can nhưng Câu Tiễn không nghe, bèn cất quân. Vì xem thường lực lượng quân Ngô nên quân Việt đã thua to ở Phù Tiêu. Câu Tiễn bèn đem 5000 quân còn lại giữ và trốn tránh ở núi Cối Kê.

Phù Sai đuổi đến, bao vây Cối Kê. Câu Tiễn hỏi kế Phạm Lãi. Phạm Lãi khuyên ông dùng lời lẽ khiêm nhuợng, lấy lễ hậu để lấy lòng vua Ngô; nếu vua Ngô không chịu thì phải thân hành đến hầu hạ.
Câu Tiễn nghe theo, bèn sai đại phu Văn Chủng đến cầu hòa với Ngô. Phù Sai sắp ưng thuận thì Ngũ Tử Tư can không nên theo. Văn Chủng trở về báo với Câu Tiễn. Câu Tiễn muốn giết vợ con, đốt của cải châu báu, xông ra đánh để chịu chết. Văn Chủng ngăn Câu Tiễn nói:Quan thái tể của Ngô tên là Bá Hi là người tham lam có thể dùng lợi để dụ dỗ. Xin nhà vua cho tôi lẻn đến để nói với ông ta.

Câu Tiễn đành phải xin đầu hàng, sai Chủng đem gái đẹp, của quý lẻn đến đưa cho Bá Hi. Bá Hi nhận rồi nói giúp với vua Ngô. Phù Sai nghe theo, cho nước Việt đầu hàng. Nước Việt không bị tiêu diệt nhưng Câu Tiễn bị bắt về nước Ngô. Sau đó ông phải chịu nhịu khổ nhục kể cả việc nếm phân của Phù Sai.
Gian khổ chiến đấu chống quân Ngô

Sau 3 năm phục dịch và chịu nhục cùng với vợ ở nước Ngô, ông đã giành được sự tin tưởng của Phù Sai và được Ngô Vương cho quay về nước Việt. Ông đã tiếp tục cai trị và tiến hành cải cách lớn. Trong thời gian này, ông đã trọng dụng Văn Chủng và Phạm Lãi là những nhà quân sư chính trị, quân sự tài ba để xây lại Việt Quốc. Câu Tiễn bên trong nuôi chí phục thù, nhưng ngoài mặt giả vờ tuân phục, hằng năm đều đặn triều cống. Việt Vương giao Phạm Lãi bí mật luyện tập quân đội, tích trữ quân lương. Cùng lúc, Phạm Lãi dùng mỹ nhân kế, đem Tây Thi (một trong Tứ đại Mỹ nhân Trung Hoa) dâng cho Ngô vương Phù Sai làm cho Phù Sai hoang dâm, xa xỉ, bỏ bê chính sự, giết hại trung thần Ngũ Tử Tư (một trong những trụ cột chính của đất nước). Trong thời gian này, các quan chức của Việt Vương cũng phá hoại nội bộ của Ngô Quốc bằng các thủ đoạn hối lộ và tung tin thị phi. Việt Vương Câu Tiễn đã kiên trì theo đuổi mục tiêu phục thù bằng cách tự đày đọa chính mình như kê gối bằng gỗ khi ngủ, ăn thức ăn của những người nghèo khó,… theo như câu thành ngữ Trung Hoa "nếm mật nằm gai" (臥薪嘗膽, "ngọa tân thường đảm").

Sau 10 năm phục hưng kinh tế, quân sự và cải cách chính trị, Việt Quốc đã trở nên hùng mạnh. Câu Tiễn được sự tin tưởng của Phù Sai, không chú ý tới sự phục hồi của nước Việt mà mang quân lên trung nguyên giao tranh với nước Tề, nước Tấn.
Đầu năm 483 TCN, Phù Sai họp chư hầu ở Hoằng Trì, muốn tranh ngôi bá chủ của nước Tấn. Trong khi hội chư hầu chưa xong thì tháng 6 năm đó, Câu Tiễn mang quân đánh úp nước Ngô. Thế tử nước Ngô là Hữu ra cự bị quân Việt bắt sống và tự sát. Quân Việt tiến vào nước Ngô.

Phù Sai mang quân về nước. Quân Ngô theo Phù Sai đi đường xa mỏi mệt, bị quân Việt đánh bại. Phù Sai phải mang nhiều của cải sai sứ sang giảng hòa với nước Việt. Câu Tiễn cho giảng hòa

Năm 478 TCN, Câu Tiễn lại mang quân đánh Ngô. Hai bên giáp trận ở Lập Trạch. Quân Ngô đại bại. Năm 476 TCN, Câu Tiễn lại tấn công đánh bại Ngô lần thứ ba. Năm 475 TCN, Câu Tiễn lại mang quân đánh, vây nước Ngô. Đến tháng 11 năm 473 TCN, quân Việt đại phá quân Ngô. Ngô Phù Sai sau nhiều lần bại trận không còn khả năng kháng cự, xin quy phục như nước Việt trước đây. Câu Tiễn định chấp nhận nhưng Phạm Lãi can không nên. Vì vậy Phù Sai phải đâm cổ tự sát
Làm bá chư hầu
Cuối cùng Câu Tiễn đã tiêu diệt được Ngô Phù Sai, rửa được cái nhục ở Cối Kê. Phù Sai tự vẫn không đầu hàng, ông sai chôn Ngô vương và giết thái tể Bá Hi phản chủ.

Sau khi Câu Tiễn đã bình định được nước Ngô, bèn đem quân về hướng bắc, vượt sông Hoài cùng các nước chư hầu là Tề, Tấn, họp ở Từ Châu, nộp cống cho nhà Chu. Vua Nguyên Vương nhà Chu ban thịt đến Câu Tiễn, cho ông làm bá.

Sau khi đã vượt qua phía nam sông Hoài, Câu Tiễn bèn lấy đất trên sông Hoài cho nước Sở, trả cho nứoc Tống đất Ngô đã lấy của nứoc Tống, trả cho nước Lỗ dải đất một trăm dặm ở phía đông sông Tứ. Bấy giờ quân của Việt làm bá chủ ở phía đông sông Giang, sông Hoài. Chư hầu đều mừng gọi Câu Tiễn là bá vương.
Giết công thần
Khi đại sự thành công, vì cái chết của Tây Thi đã giúp Phạm Lãi thấy được con người thật của Câu Tiễn. Ông cho rằng Câu Tiễn là người chỉ có thể chung hoạn nạn, không thể cùng hưởng yên vui. Phạm Lãi bèn viết thư từ biệt Câu Tiễn:

Tôi nghe: "Vua lo thì tôi phải khó nhọc, vua nhục thì tôi phải chết"! Hồi xưa nhà vua chịu nhục ở Cối Kê, tôi sở dĩ chưa chết là vì còn phải trả thù. Nay đã rửa được nhục rồi, tôi xin chết theo tội ở Cối Kê!
Rồi bỏ đi ẩn dật. Trước khi đi, Phạm Lãi gửi thư về cho đại phu Văn Chủng nói:
Chim đã hết thì cung tốt phải cất, thỏ khôn đã chết thì chó săn bị nấu. Vua Việt là người cổ dài, miệng diều hâu có thể cùng lúc lo hoạn nạn, nhưng không thể cùng vui sướng với ông ta. Sao ông lại không bỏ đi?
Văn Chủng nhận được thư nhưng đã không tin. Câu Tiễn cầm theo kiếm đến gặp Văn Chủng và nói:"Nhà ngươi dạy quả nhân bảy thuật để đánh Ngô, quả nhân mới dùng có ba mà nước Ngô đã thua. Còn bốn thuật nữa ở nhà ngươi. Nhà ngươi hãy giúp ta dùng những thuật ấy với tiên vương xem sao".

Câu Tiễn ra về. Văn Chủng biết ý vua Việt muốn sát hại nên đã dùng gươm tự sát. Còn một thuyết là ông bị Câu Tiễn giết chết.
Nhận định: Sử ký có lời nhận định về Câu Tiễn:
“ Câu Tiễn nhọc công, khổ xác, cuối cùng tiêu diệt được nước Ngô mạnh, phía bắc cho quân đội vào xem Trung Quốc để tôn nhà Chu, được danh hiệu là bá vương. Câu Tiễn chẳng đáng gọi là hiền sao? Đó cũng là cái vinh quang sót lại của vua Vũ vậy. Phạm Lãi ba lần dời chỗ ở, đều nổi tăm tiếng để lại đời sau. Vua và tôi đều như vậy, thế nào mà chẳng vinh hiển? ”—Tư Mã Thiên
Tuy Câu Tiễn là người nhẫn nhục giỏi và có tài trị quốc nhưng vì quá đa nghi nên đã sát hại nhiều trung thần và làm tổn hại đến nước Việt sau này.
III. PHẠM LÃI

Phạm Lãi (chữ Hán: 范蠡), tên tự là Thiếu Bá (少伯), là một tướng tài của nước Việt ở Trung Hoa thời Xuân Thu Chiến Quốc, người đã giúp Việt vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô. 
Mưu thần phục quốcXem thêm: Văn Chủng

Khi Câu Tiễn muốn đem quân sang đánh nước Ngô, Phạm Lãi can nhưng Câu Tiễn không nghe. Kết quả là bị vua Ngô Phù Sai đánh cho đại bại ở Cối Kê, bị bắt làm tù binh. Sau đó Việt vương được tha cho về nước.

Về tới nước, Câu Tiễn bên trong nuôi chí phục thù, nhưng ngoài mặt giả vờ tuân phục, hằng năm đều đặn triều cống. Việt vương giao Phạm Lãi bí mật luyện tập quân đội, tích trữ quân lương. Cùng lúc, Phạm Lãi và bạn thân là đại thần Văn Chủng dùng mỹ nhân kế tuyển lựa người đẹp trong nước là Thi Di Quang (tức Tây Thi - một trong Tứ đại Mỹ nhân Trung Hoa) và Trịnh Đán (sau được gọi là Đông Thi) dâng cho vua nước Ngô là Ngô Phù Sai làm cho Ngô vương hoang dâm, xa xỉ, bỏ bê chính sự, giết hại trung thần Ngũ Tử Tư (một trong những trụ cột chính của đất nước).
Cuối cùng Câu Tiễn đánh úp nước Ngô, tiêu diệt được Ngô Phù Sai rửa được cái nhục ở Cối Kê (năm 473 TCN).
Rút lui đúng lúc
Khi đại sự thành công, Phạm Lãi cho rằng vua Việt có tướng cổ cao, môi dài mỏ quạ, là người nhẫn tâm mà ghét kẻ có công, cùng ở lúc hoạn nạn thì được chứ lúc an lạc thì không được, nên không ở lại làm quan mà bí mật trốn đi ở ẩn.

Theo Sử ký - nguồn tài liệu đáng tin cậy hơn cả - Phạm Lãi đến nước Tề, cha con cùng tự cày cấy làm ăn. Nước Tề sai sứ mang ấn tướng quốc đến mời ông vào triều, nhưng ông từ chối, không màng công danh, rồi cùng gia quyến đến đất Đào, đổi tên thành Đào Chu Công (陶朱公) và trở thành một thương gia giàu có lúc bấy giờ. Tài liệu này còn kể chuyện ông sinh thêm 1 con trai út ở đất Đào. Phạm Lãi có khi nhớ nước Việt đã trở về thăm, có người từng thấy ông lai vãng ở Dường Thành nên sau này đổi tên lại thành Dương Thành Thành Lãi để tưởng nhớ ông. Khi về tới Việt ông thấy rất vui khi dân được ấm no và hạnh phúc.Câu chuyện về người con thứ của Phạm Lãi bị án chết chém ở nước Sở (xem ở dưới) cho thấy khi bỏ nước Việt ra đi, ông mang theo toàn bộ gia quyến và không đi cùng Tây Thi.

Tại nước Tề, Đào Chu Công đã viết sách "Trí phú kỳ thư"
Có thuyết nói rằng ông rủ người đẹp Tây Thi lên thuyền đi vào Ngũ Hồ, cắt đứt mọi mối quan hệ với thế giới bên ngoài, sống cuộc đời phóng khoáng tự do, khi ca hát, khi câu cá, lúc đọc sách, mặc cho thời gian trôi qua .

Nhưng có thuyết khác bác bỏ ý trên. Đông Chu Liệt Quốc cho rằng khi diệt được Ngô, Câu Tiễn định mang Tây Thi về Việt nhưng vợ Câu Tiễn ghen nên bí mật sai người bắt nàng, buộc đá vào cổ và đẩy xuống sông cho chết. Vì thế Phạm Lãi chỉ đi một mình.
Lời khuyên Văn Chủng

Theo Sử ký, khi bỏ sang Tề, trong thư Phạm Lãi gửi cho Văn Chủng có đoạn viết:
"Phi điểu tận, lương cung tàng. Giảo thỏ tử, tẩu cẩu phanh. Việt vương vi nhân trường cảnh điểu uế, khả dữ cộng hoạn nạn, bất khả dữ cộng lạc. Tử hà bất khứ?"

Dịch nghĩa:Chim bay mất hết, cung tốt được cất đi. Thỏ khôn chết, chó săn bị nấu. Việt vương là người cao cổ, miệng chim, chỉ có chung hoạn nạn mà không thể chung vui. Thầy sao còn chưa lui về?

Văn Chủng nhận được thư, cáo bệnh không vào triều. Có người sàm tấu Văn Chủng muốn phản loạn. Câu Tiễn ép Văn Chủng tự sát bằng cách ban cho ông thanh kiếm và viết "Tử giáo quả nhân phạt Ngô thất thuật, quả nhân dụng kì tam nhi bại Ngô, kì tứ tại tử, tử vi ngã tòng tiên vương thí chi." (Dịch nghĩa: Thầy dạy quả nhân 7 thuật phạt Ngô, quả nhân dùng 3 đánh bại Ngô, còn 4 ở lại với thầy, thầy vì ta theo tiên vương mà thử.). Văn Chủng bèn tự sát. Theo một tài liệu khác Văn Chủng bị chém chết dù Văn Chủng không có tội gì.

Cũng từ đó mà có thành ngữ "Thỏ tử cẩu phanh", dùng để ám chỉ thói đời đen bạc, lấy oán trả ân, các vị vua hung bạo bất nhân, khi đã lập quốc thành công rồi thì trở mặt giết hại các công thần.
Nhận định
Cuốn Sử ký, mục Việt vương Câu Tiễn thế gia, phần cuối được Tư Mã Thiên nhận định: Phạm Lãi ba lần đổi chỗ ở mà thành danh trong thiên hạ. Không phải ông ta chỉ bỏ đi một cách dễ dàng và thế là hết. Ông ta ở đâu, là nổi danh ở đấy

Phạm Lãi là tướng tài duy nhất sống sót, bởi ông đã sớm nhận ra con người của Câu Tiễn. Ông được người đời sau khen là:Người như ngọc chuốt, lòng tựa lửa hồngĐức còn chảy mãi, nhân tỏ vĩnh hằng
Cứu nước không cứu nổi con
Theo Sử ký, con thứ Phạm Lãi phạm tội giết người, bị giam ở nước Sở. Phạm Lãi quen tướng quốc Sở là Trang Sinh, sai con mang 1.000 dật (24.000 lượng) vàng đi "đút lót" cho Trang Sinh xin tha con mìnhÔng muốn sai đứa con út đi, nhưng người con cả nhất định đòi đi, nếu không sẽ tự sát; vợ ông cũng muốn để người con cả đã chín chắn vì sợ cậu con út còn ít tuổi. Cuối cùng ông đành nghe theo.

Người con cả đến nước Sở gặp Trang Sinh, đưa vàng và ngỏ lời nhờ tha cho em mình. Trang Sinh nhận lời, bảo con Phạm Lãi cứ về, rồi em sẽ được thả mà không được hỏi lý do tại sao. Trang Sinh vốn là người ngay thẳng, định bụng sau khi xong việc sẽ hoàn lại vàng cho Đào Chu công.

Sau đó Trang Sinh vào tâu vua Sở Huệ Vương, mượn điềm thiên văn tai ương để xui vua Sở phóng thích tù nhân, làm điều phúc đức tránh tai hoạ. Vua Sở nghe theo, bèn ra lệnh sẽ thả hết phạm nhân.

Con cả Phạm Lãi chưa về ngay, lại lấy tiền riêng của mình mang theo là 100 dật, nhờ cậy một vị quan khác nước Sở nghe ngóng tình hình. Nghe tin vị đó báo lại là vua Sở sẽ đại xá, anh ta nghĩ rằng đáng lý mình không phải phí vàng đem đút lót mà em mình vẫn được thả, nên quay lại nhà Trang Sinh. Trang Sinh biết ý anh ta muốn đòi vàng, bèn trả lại; nhưng trong bụng thấy xấu hổ vì bị trẻ con nghĩ rằng mình là kẻ tham lam, bèn vào tâu vua Sở rằng:Tôi nghe thiên hạ dị nghị rằng đại vương nhận tiền đút lót của Phạm Lãi nên mới đại xá thiên hạ, làm giảm ân đức của người. Vậy xin chém riêng con Phạm Lãi để thiên hạ thấy sự nghiêm minh, nhân đức của đại vương!

Vua Sở nghe theo, bèn sai mang con thứ Phạm Lãi trong ngục ra chém, còn những phạm nhân khác đều tha. Người con cả mang xác em về. Bà vợ khóc than, Phạm Lãi nói:Sở dĩ tôi muốn sai thằng út đi, vì khi nó sinh ra, nhà ta đã khá giả; vì thế nó sẽ không tiếc của mang hối lộ người ta. Còn thằng cả sinh ra khi nhà ta còn nghèo khó, nó sẽ tiếc của. Bởi thế lúc nó đi, tôi biết là nó sẽ phải mang xác em nó về.

Phạm Lãi hiểu nhân tình thế thái, không những hiểu từng đứa con, còn hiểu cả Trang Sinh nữa; tuy ông có thể cứu nước Việt nhưng lại không cứu nổi con mình. Câu chuyện cái chết của người con ông để lại bài học sâu sắc cho hậu thế về cách đối nhân xử thế trong xã hội.
(Sưu tầm)












Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét