

Cây đào là một thực vật dùng làm thuốc nổi tiếng, cả rễ, vỏ, cành, lá, hoa, hột của nó đều có thể làm thuốc được, có công dụng trừ phong hoạt huyết, giảm, đau, lợi tiểu, sát khuẩn. Rễ, cành và vỏ của cây đào sắc lên uống có thể trừ được bệnh nhiệt dạ dày, vàng da do viêm gan, đau nhói vùng tim, đau bụng. Nếu dùng nước sắc đó để tắm, có thể tránh được bệnh truyền nhiễm, nấm ngoài da, sát khuẩn vết thương. Lá đào tươi đun thành nước thuốc hoặc giã nát vắt lấy nước bôi lên vết thương chữa sưng, đau cực kỳ hiệu quả.
Thông thường thì đào thường được dùng lúc tươi hoặc phơi khô, vì nó có tác dụng hoạt huyết, tiêu ứ chậm nên thích hợp dùng cho phụ nữ đang trong thời kỳ kinh nguyệt.
Ngày hè khát nước, táo bón, bao gồm cả chứng táo bón do cơ thể người già hư nhược và ruột khô, những người đau bụng kinh hoặc tắc kinh đều có thể sử dụng. Các thiếu nữ trong giai đoạn đầu khi mới có kinh nguyệt, các kỳ kinh vẫn chưa đều đặn, nên ăn nhiều đào hoặc mứt đào khô, những người đau bụng do ăn nhiều đồ lạnh càng nên sử dụng.
Lấy lá đào non, lá mướp non mỗi thứ một nửa, cứ 50g cho 3g phèn chua, giã nát bôi lên chỗ đau, chuyên dùng để trị mụn nhọt cho trẻ em.
Quả đào đơn tính nhỏ quắt, không hạt gọi là đào nô, tục gọi là đào khô, có tác dụng chữa thổ huyết, vã mồ hôi, trừ bệnh lỵ. Dùng 40-60g đào khô lép màu xanh lục, thêm một bát rưỡi nước, đun to lửa đến khi còn nửa bát, có tác dụng chữa lỵ giảm sốt.
Dùng 9g đào khô lép và 30 cọng lúa nếp, thêm nước sắc đặc uống thay trà, uống liên tục mấy ngày có thể trị bệnh ra mồ hôi trộm.
Những quả đào khô qua mùa đông mà vẫn chưa rụng, sang mùa đào năm sau sẽ trở thành đào thơm. Dân gian có phong tục, vào thời điểm làm trà mới thì hái đào thơm, bỏ mấy quả đào thơm vào chỗ trà mới để dành, có thể sát khuẩn, chống ẩm, tăng thêm mùi thơm, khiến cho màu của lá trà và vị trà giữ được lâu không biến chất.
Một số món ăn bài thuốc dùng đào để chữa bệnh
Cháo hoa đào
Nguyên liệu và cách làm: Cánh hoa đào tươi 4g, gạo tẻ 100g, cả hai thứ trên nấu thành cháo loãng, để ăn, cách ngày làm một lần.
Tác dụng: Nhuận tràng thông tiện, thích hợp trị táo bón.
Rượu cành đào
Nguyên liệu và cách làm: Một nhánh đào, rượu 500ml. Chặt nhỏ nhánh đào ra, cho 500ml rượu vào đun, đun cho đến khi chỉ còn 5ml, dùng ngay.
Tác dụng: Hoạt huyết, thông ứ, chủ yếu để trị đau tim đột ngột.
Hoa đào xào chân giò hun khói
Nguyên liệu và cách làm: Hoa đào tươi 5 bông, tôm nõn 10g, chân giò hun khói 10g, trứng gà 4 quả, gia vị vừa đủ. Ngắt bỏ nhị hoa đào, rút từng cánh hoa ra rửa sạch, vẩy ráo cắt thành sợi nhỏ. Tôm nõn rửa sạch, cho rượu, gia vị vào, hấp chín, cắt nhỏ. Chân giò hun khói, gừng cắt nhỏ. Trứng gà đập vào bát, đánh tan, cho thêm nước dùng gà, mì chính, rượu, gia vị, bột tiêu trắng, đánh đều lên. Đặt chảo lên bếp, đun nóng rồi cho mỡ vào, cho gừng vào phi dậy mùi rồi vớt ra, đổ trứng gà đã cho gia vị vào, dùng muôi đảo, xào chín, đổ ra đĩa rồi rắc sợi hoa đào, tôm nõn, chân giò hun khói lên trên.
Tác dụng: Dùng cho phụ nữ mang thai tiểu tiện không thông.
Trứng gà luộc cành đào
Nguyên liệu và cách làm: Cành đào (cành mới đâm trong năm, còn cuống lá, 0,6-0,9m, khoảng 250g, trứng gà 3 quả. Cành đào chặt từng khúc khoảng 3,5cm, cho vào nồi đất luộc chung với trứng gà trong khoảng 2-3 giờ, đến khi vỏ trứng chuyển sang màu nâu sẫm, lòng trắng trứng có màu vàng nhạt thì thôi. Sáng, trưa, tối mỗi buổi ăn 1 quả, dùng liên tục trong 1-2 tháng thì ngừng.
Tác dụng: Chủ yếu dùng để chữa trị bệnh u cổ tử cung, nhưng cần lưu ý cành đào phải là cành mới mọc trong năm, dùng tay bẻ hoặc mảnh sành chặt đứt, không sử dụng đồ kim loại để luộc.
Các bài thuốc dân gian sử dụng quả đào tươi
Bài 1: Đào tươi 3 quả, gọt bỏ lớp vỏ ngoài, thêm 30g đường phèn, hầm cách thủy đến khi nát ra thì bỏ hạt, mỗi ngày dùng 1 lần. Tác dụng trị ho.
Bài 2: Đào tươi khi ăn gọt vỏ bỏ hạt, mỗi ngày ăn 2 lần vào buổi sáng và tối, mỗi lần ăn 1-2 quả. Tác dụng chữa tăng huyết áp.
Chú ý: Quả đào tính ôn, nếu ăn nhiều dễ gây trướng bụng, nổi nhọt.
(Báo Súc Khỏe và Đời Sống)
HOA ĐÀO_ VỊ THUỐC CHO SỨC KHỎE VÀ SẮC ĐẸP
Hoa đào chỉ nở vào mùa xuân và trở thành một phần không thể thiếu đối trong văn hóa của người dân miền Bắc mỗi khi dịp Tết đến Xuân về. Hơn thế, hoa đào còn là một dược phẩm và mỹ phẩm độc đáo của nền y học cổ truyền. Hoa đào dùng để chữa bệnh
Hoa đào có vị đắng, tính bình, không độc và vào được ba đường kinh Tâm, Can và Vị. Vị thuốc này có công dụng lợi thủy, hoạt huyết, thông tiện, được người xưa dùng để chữa các chứng bệnh như thủy thũng, cước khí, đàm ẩm, tích trệ, đại tiểu tiện bất lợi, kinh bế, tâm phúc thống (đau vùng tim), mụn nhọt........
Chính vì vậy mà từ xa xưa, sau dịp Tết Nguyên đán, người ta thường thu hái hoa đào đem phơi khô trong bóng râm (phơi âm can) và bảo quản nơi cao ráo để làm thuốc dùng dần.
* Để trị các chứng cước khí, đau vùng tim, người ta dùng hoa đào khô tán bột, uống với nước ấm hoặc rượu với liều từ 3 - 5g trong một ngày.
* Để chữa chứng rụng tóc, hói đầu người ta dùng bột hoa đào trộn đều với mỡ lợn hoặc dầu vừng rồi bôi lên vùng tổn thương sau khi đ• rửa sạch bằng nước hòa với tro của rơm rạ.
* Để chữa chứng ngược tật (sốt rét) dùng hoa đào tán bột uống, mỗi ngày 3 g với rượu ấm.
* Để chữa chứng kiết lỵ dai dẳng, có thể dùng hoa đào 10 - 15 bông sắc uống, mỗi ngày 3 lần.
* Để chữa chứng đại tiện táo kết, dùng hoa đào khô 10g, hoa đào tươi 30g, sắc uống.
* Để chữa chứng tiểu tiện bất lợi, dùng hoa đào tươi 30g trộn với bột mỳ, đường làm bánh nướng ăn.
Hoa đào dùng để làm đẹp
* Với những phụ nữ quá béo, muốn có được một thân hình thon thả, ưa nhìn, sách Thiên kim yếu phương khuyên nên uống bột hoa đào mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 1g vào lúc đói.
* Để trị các vết rám đen ở mặt, người ta dùng hoa đào 4 phần, bạch dương bì 2 phần và bạch quả tử nhân 5 phần, tất cả đem sấy khô, tán thành bột mịn, đựng trong lọ kín dùng dần. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 1g ngay sau bữa ăn.
* Phụ nữ muốn có được làn da trắng trẻo, nhu nhuận, mịn màng có thể dùng bài thuốc có tên gọi là Ngọc nhan tán, gồm các vị : hoa đào 200g, đông qua nhân (nhân hạt bí đao) 250g, và bạch dương bì (vỏ cây bạch dương) 100g. Các vị đều sấy hoặc phơi khô, tán bột, trộn thêm một chút đường trắng rồi đựng trong lọ kín để dùng dần. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 thìa cà phê sau bữa ăn.
Danh y Tuệ Tĩnh trong Nam dược thần hiệu cũng đã ghi lại hai phương thuốc dùng hoa đào để làm đẹp da mặt cho phụ nữ.
Phương thứ nhất: hoa đào 4 lạng ta, nhân hạt bí đao 5 lạng ta , vỏ quýt 2 lạng ta, tất cả đều phơi khô, tán bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 2 đồng cân với nước ấm sau bữa ăn. Muốn da trắng thì thêm nhân hạt bí đao, nếu muốn da đỏ hồng thì thêm hoa đào. Uống 50 ngày thì mặt trắng, uống thêm 50 ngày nữa thì da dẻ toàn thân cũng trở nên trắng trẻo.
Phương thứ hai: vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch lấy hoa đào phơi khô, tán bột. Ngày mùng 7 tháng 7 chích lấy máu ở mào con gà, đem trộn với bột hoa đào rồi bôi lên da mặt, sau 2 - 3 ngày màng thuốc bong ra thì da mặt trở nên tươi sáng như hoa. Đây là phương thuốc làm đẹp bí truyền của Thái Bình công chúa đời nhà Đường (Trung Quốc), sau được sách Thánh tễ tổng lục chế thành một loại mỹ phẩm có tên gọi là Diện mô cao.
* Để trị trứng ca, mụn nhọt trên da mặt, Tuệ Tĩnh khuyên nên dùng hoa đào và nhân hạt bí đao với liều lượng bằng nhau, phơi khô, tán bột, hòa với mật mà bôi hoặc dùng hoa đào và đan sa với liều lượng như nhau, tán bột, uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 1 đồng cân (3 - 4g) vào lúc đói trong 10 - 20 ngày. Ngoài ra, để trị mụn nhọt ở vùng lưng, sách Thánh tễ tổng lục khuyên nên dùng bột hoa đào hòa với dấm đặc mà bôi lên tổn thương nhiều lần trong ngày.
HOA ĐÀO: MỘT VỊ THUỐC QUÝ
Hoa đào tính bình, vị đắng vào 2 kinh: Can vị, có công năng hoạt huyết, lợi thủy, thông tiện, chữa trị chứng thủy thũng, cước khí, đàm ẩm, tích trệ, đại tiểu tiện không lợi, kinh nguyệt không thông. Hoa này còn dùng chữa sởi, đậu. Phụ nữ có thai cấm dùng, vì thuốc gây hưng phấn tử cung.
Hoa đào phơi âm can, giã nát, uống nóng với rượu có thể thông đại tiện, trừ được đàm ẩm và chứng súc thủy (tồn đọng nước) ở thận, bàng quang, chuyên trị bệnh cước khí.
Hoa đào tươi hoặc khô đều được dùng làm thuốc, nhưng hoa tươi (đặc biệt là loại mới chớm nở, sắp nở tốt hơn là khô).
Hoa đào nấu với gạo tẻ, mật ong và đường thành cháo để ăn, có tác dụng hoạt huyết, chữa đại tiểu tiện bí kết. Hoa đào và hoa mai lượng bằng nhau, pha lấy nước để rửa mặt, có tác dụng tẩy bỏ dần các vết thâm và nốt xám đen trên mặt, làm đẹp da.
Dùng hoa đào để rửa mặt, nhất là đối với những người da mẫn cảm, có nhọt lâu khỏi, có thể dùng hoa đào và muối ăn cùng lượng, giã nát trộn đều hòa với dấm mà đồ. Nếu trên mặt có nốt mụn ra nước vàng hoặc mủ đặc, có thể dùng bột hoa đào hoặc trà hoa đào để uống.
Hạt giống của cây đào gọi là đào nhân. Đào nhân tính bình, vị ngọt đắng. Cổ nhân thường dùng nhân phối hợp với hồng hoa gia nhập trong thang.
Hoa đào, hoa hồng, hoa tường vi, hoa mai, hoa rau hẹ, trầm hương mỗi loại 30g, hạch đào nhân 240g, rượu nếp, rượu đã chưng cất 1.250ml. Đem các vị trên ngâm trong rượu, nút kín, sau một tháng có thể đem dùng được. Trong quá trình ngâm đó nên lắc nhiều lần cho thật đều. Mỗi lần uống 20ml, ngày uống 1 - 2 lần, có tác dụng chữa liệt dương.
Hoa đào 25g, rửa sạch ngâm với rượu trắng 250ml, đậy nút kín, sau một tuần lấy ra uống. Mỗi lần uống 10ml, pha thêm vào nước sôi để ấm cho loãng ra để uống. Cũng có thể dùng hoa đào, lăng tiêu hoa, mỗi loại 10g, 10 quả trứng gà. Đem rửa sạch hoa xong nghiền nát thành bột.
Trứng gà rửa sạch đem đục một lỗ thủng dốc cho ra bớt lòng trắng, còn lại để nguyên, nhét bột hoa vào trong quả trứng, bịt kín lỗ đục đó bằng giấy ướt, xong bỏ vào trong nồi để hấp cách thủy cho đến chín. Mỗi ngày ăn hai quả chia ra 2 lần, dùng chữa bế kinh.
Để làm hết các nếp nhăn trên da mặt các cô, các chị có thể dùng nước sắc hoa đào rửa mặt. Hoặc là lấy hoa đào, nhân hạt bí đao nghiền mịn, trộn với mật ong, buổi tối xoa lên mặt, sáng dậy rửa đi, các vết nhăn sẽ dần dần hết.
Hoa đào 10g, hoa sen 15g. Phơi khô, nghiền vụn, chia 3 lần bỏ vào trong cốc thủy tinh để pha nước sôi vào như pha trà để một lát cho nước còn ấm, uống như uống nước trà, để chữa các vết sắc tố trên da mặt.
Đào hoa, sơn chi hoa (hoa dành dành) mỗi loại liều lượng bằng nhau, một ít ghixêrin, trộn đều đem nghiền vụn hai hoa xong hòa đều vào ghixerin để làm thuốc bôi lên các nốt mụn trứng cá trên mặt.
HOA ĐÀO VỚI Y HỌC CỔ TRUYỀN
Từ xa xưa, sau dịp Tết Nguyên đán, người ta thường thu hái hoa đào đem phơi khô trong bóng râm (phơi âm can) và bảo quản nơi cao ráo để làm thuốc dùng dần. Theo nhiều sách thuốc cổ như Thiên kim phương, Ngoại đài, Thánh tễ tổng lục, Thánh huệ phương, Biệt lục, Bản thảo cương mục, Trửu hậu phương, Hồng nghĩa giác tư y thư…hoa đào có vị đắng, tính bình, không độc và vào được ba đường kinh Tâm, Can và Vị. Vị thuốc này có công dụng lợi thủy, hoạt huyết, thông tiện, được người xưa dùng để chữa các chứng bệnh:
- Để trị các chứng cước khí, đau vùng tim, người ta dùng hoa đào khô tán bột, uống với nước ấm hoặc rượu với liều từ 3 - 5g trong một ngày.
- Để chữa chứng rụng tóc, hói đầu người ta dùng bột hoa đào trộn đều với mỡ lợn hoặc dầu vừng rồi bôi lên vùng tổn thương sau khi đã rửa sạch bằng nước hòa với tro của rơm rạ.
- Để chữa chứng ngược tật (sốt rét) dùng hoa đào tán bột uống, mỗi ngày 3g với rượu ấm.
- Để chữa chứng kiết lỵ dai dẳng, có thể dùng hoa đào 10 - 15 bông sắc uống, mỗi ngày 3 lần.
- Để chữa chứng đại tiện táo kết, dùng hoa đào khô 10g, hoa đào tươi 30g, sắc uống.
- Để chữa chứng tiểu tiện bất lợi, dùng hoa đào tươi 30g trộn với bột mỳ, đường làm bánh nướng ăn.
-
Với những phụ nữ có cân nặng quá khổ, muốn có được một thân hình thon thả, ưa nhìn, sách Thiên kim yếu phương khuyên nên uống bột hoa đào mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 1g vào lúc đói.
- Để trị các vết rám đen ở mặt, người ta dùng hoa đào 4 phần, bạch dương bì 2 phần và bạch quả tử nhân 5 phần, tất cả đem sấy khô, tán thành bột mịn, đựng trong lọ kín dùng dần. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 1g ngay sau bữa ăn. Bài thuốc này có tên gọi là Bạch dương bì tán, được ghi lại trong sách Trửu hậu phương.
Hoặc dùng hoa đào tươi 50g, nhân hạt bí đao 50g, hai thứ nghiền nhỏ trộn với mật ong rồi bôi mỗi ngày vài lần lên da mặt.
Hoặc dùng hoa đào tươi 250g và bạch chỉ 30g ngâm với 1000ml rượu trắng, sau 1 tháng thì dùng được, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 10 ml. Hoặc dùng hoa đào 10g, hoa sen 15g hầm với nước sôi trong bình kín, sau 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày.
- Phụ nữ muốn có được làn da trắng trẻo, nhu nhuận, mịn màng có thể dùng bài thuốc có tên gọi là Ngọc nhan tán, gồm các vị: hoa đào 200g, đông qua nhân (nhân hạt bí đao) 250g, và bạch dương bì (vỏ cây bạch dương) 100g. Các vị đều sấy hoặc phơi khô, tán bột, trộn thêm một chút đường trắng rồi đựng trong lọ kín để dùng dần. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 thìa cà phê sau bữa ăn.
Hoặc có thể dùng bài Tam hoa trừ trựu dịch gồm có hoa đào, hoa sen và hoa phù dung lượng bằng nhau, sắc lấy nước rửa mặt hàng ngày. Cũng có thể dùng hoa đào tươi 120g ngâm với 500 ml rượu trắng, sau 7 ngày thì dùng được, uống mỗi ngày 10 ml.
Danh y Tuệ Tĩnh trong Nam dược thần hiệu cũng đã ghi lại hai phương thuốc dùng hoa đào để làm đẹp da mặt cho phụ nữ.
Phương thuốc thứ nhất: hoa đào 4 lạng ta, nhân hạt bí đao 5 lạng ta, vỏ quýt 2 lạng ta, tất cả đều phơi khô, tán bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 2 đồng cân với nước ấm sau bữa ăn.
Muốn da trắng thì thêm nhân hạt bí đao, nếu muốn da đỏ hồng thì thêm hoa đào. Uống 50 ngày thì mặt trắng, uống thêm 50 ngày nữa thì da dẻ toàn thân cũng trở nên trắng trẻo.
Phương thuốc thứ hai: vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch lấy hoa đào phơi khô, tán bột. Ngày mùng 7 tháng 7 chích lấy máu ở mào con gà, đem trộn với bột hoa đào rồi bôi lên da mặt, sau 2 - 3 ngày màng thuốc bong ra thì da mặt trở nên tươi sáng như hoa. Đây là phương thuốc làm đẹp bí truyền của Thái Bình công chúa đời nhà Đường (Trung Quốc), sau được sách Thánh tễ tổng lục chế thành một loại mỹ phẩm có tên gọi là Diện mô cao.
- Muốn tư âm bổ thận, nhuận da và dưỡng nhan sắc, có thể dùng món ăn được chế từ hoa đào: hoa đào 20 bông, tôm nõn 300g, củ cải 150g, hành tây 70g, tương cà chua 50g, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Hoa đào tỉa lấy cánh rửa sạch, củ cải và hành tây rửa sạch thái mỏng, đổ dầu vào chảo, phi hành cho thơm rồi cho tôm, củ cải, hành tây vào xào to lửa, khi chín cho tương cà chua và gia vị vừa đủ, đổ ra đĩa, rắc cánh hoa đào lên trên, ăn nóng.
- Để trị trứng cá, mụn nhọt trên da mặt, Tuệ Tĩnh khuyên nên dùng hoa đào và nhân hạt bí đao với liều lượng bằng nhau, phơi khô, tán bột, hòa với mật mà bôi hoặc dùng hoa đào và đan sa với liều lượng như nhau, tán bột, uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 1 đồng cân (3 - 4g) vào lúc đói trong 10 - 20 ngày.
Ngoài ra, để trị mụn nhọt ở vùng lưng, sách Thánh tễ tổng lục khuyên nên dùng bột hoa đào hòa với dấm đặc mà bôi lên tổn thương nhiều lần trong ngày.
Ngày nay, các nhà khoa học đã phân tích và tìm thấy trong hoa đào có chứa 8 loại glucoside như kaemferol, quercetin, kaempferol 3-0-anpha-L-arabinofuranoside, quercetin kaempferol 3-0-anpha-L-arabinofuranoside...Ngoài ra còn có Coumarin, Trifolin, Naringenin…Đặc biệt, các nhà khoa học Nhật Bản còn nhận thấy, phần phân tách từ dịch chiết methanol của hoa đào còn có tác dụng làm sạch gốc tự do 1,1-diphenylpicryl-2-hydrazyl (DPPH) và superoxide. Cho đến nay, ở nước ta vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu khảo sát thành phần hoá học, tác dụng dược lý của hoa đào trên thực nghiệm cũng như lâm sàng.
Cho đến nay, không có nhiều tư liệu ghi chép vườn đào Hải Thượng Lãn Ông trồng từ bao giờ, có bao nhiêu gốc, nhưng chúng ta có thể biết...
Vườn đào ấy ( ở Sơn Quang, Hương Sơn, Hà Tĩnh) được trồng sau khi Hải Thượng Lãn Ông “bẻ tên, cởi giáp”, cởi bỏ áo mũ, rời khỏi quân ngũ, trốn chạy cảnh “cốt nhục tương tàn” của chiến tranh phong kiến trở về làng quê nuôi mẹ, chăm em, sau năm 1746.
Tỏa sáng tâm, tài
Trước mặt vẫn sông Phố trong xanh uốn khúc, sau lưng trùng điệp núi non, vườn được bao quanh hàng xoan, hàng xà cừ xanh tốt, nhưng những rặng tre phía Tây không còn. Vườn thuốc nam của cụ Hải Thượng Lãn Ông bây giờ chỉ còn là những vạt sắn, khóm rau, nương khoai của nhân dân trồng trọt.
Trước đây, vườn cụ rộng tới 3 ha, bây giờ chỉ còn 1 ha. Ba phía đã được xây dựng tường rào chắc chắn. Nhưng vẫn còn đó núi Giả, hồ Sen gần giống như ngày ngày cụ ra vườn chăm tưới. Núi Giả cao 4m, diện tích 42 m2; Hồ Sen hình bán nguyệt ôm chân núi ở phía Tây Bắc. Núi Giả đã được tôn tạo, xanh rì cỏ mật. Hồ Sen đã được kè đá. Mấy trăm năm trước, nơi đây được Hải Thượng Lãn ông dùng làm chỗ quan sát hướng gió, xem thời tiết để bắt mạch, kê đơn, chữa bệnh.
Trên đỉnh núi Giả khi ấy còn có cây cột, cụ cắm lá cờ đuôi nheo để biết hướng gió mà đoán thời tiết phục vụ cho việc chẩn trị. Núi Giả, hồ Sen cũng là nơi cụ cùng bạn hữu ngắm trăng thanh, gió mát, đàm đạo văn chương trong những phút thư thái thanh nhàn.
Cũng tại nơi này, trong 44 năm sinh sống, Hải Thượng Lãn Ông đã học tập, đúc rút, nghiên cứu, sáng tạo viết nên pho sách đồ sộ: “Y tông tâm lĩnh” gồm 28 tập, 66 cuốn bao gồm đủ các mặt: Y đức, Y lý, Y thuật, Dược, Di dưỡng... Cảnh sắc hương thôn thảo dã cũng nuôi thi hứng để cụ viết nên những vần thơ tài hoa về cảnh sắc thiên nhiên và nhân sinh thế sự và sống những ngày cuối cùng trong cuộc đời giữa đề huề con cháu, trong tình nghĩa của làng xóm, nhân dân... Thiên nhiên hoa lá của khu vườn đã được Hải Thượng Lãn Ông ghi lại trong “Thượng kinh ký sự”.
Gìn giữ, khôi phục di tích.
Nhân dân Sơn Quang kể rằng, cũng từ vườn cây thuốc này, vào khoảng năm 1750, cụ đã nghĩ đến việc ươm đào và nhân giống loại cây có hoa rất đẹp này. Đây là giống đào phai của địa phương. Gốc và cành đào có màu đồng hun. Giống đào hoang dại này mọc nhiều ở núi Nen. Cây to, tán rộng, nhiều cành, hoa năm cánh, màu hồng phai. Quả nhỏ, nhiều lông, lúc chín vỏ màu vàng xanh, hạt nhỏ.

Trong gia phả họ Lê ở Sơn Quang ghi rằng: “Vườn đào rộng 6 mẫu (3 ha) nằm sát bờ phải sông Ngàn Phố”. Hải Thượng Lãn ông trồng đào không chỉ là thú chơi hoa ngắm cảnh, mà còn vì nó là vị thuốc quý. Lá đào sắc lên chữa nhọt, hạt đào chữa bệnh phụ nữ đều có trong các bài thuốc của Hải Thượng Lãn Ông. Trong vườn, đào mọc quấn quít trước sân, trước cổng, sau nhà. Mùa xuân, khi hoa nở rộ, ong bướm ríu ra ríu rít tìm hoa hút mật.
Ông Lê Hữu Quý - Chủ tịch Hội đông y huyện Hương Sơn - cháu đời thứ 6 của Hải Thượng Lãn ông cho biết: “Trước đây, trong khu vườn Hải Thượng Lãn ông có 7 ngôi nhà: Nhà Nghinh phong để đón khách, nhà Di chân dùng để nghỉ ngơi, nhà bếp và 4 nhà còn lại, nhà thì sao sấy thuốc, nhà kê đơn, bắt mạch, khám bệnh, nhà kho đựng thuốc, nhà thì cho người bệnh nghỉ ngơi”. Bây giờ 7 ngôi nhà ấy đã không còn.
Năm 1972, họ Lê Hữu thuộc chi Sơn Hòa đã hiến 3 gian nhà thờ (gỗ xoan mít, tứ trụ, kẻ chuyền có chạm khắc ở đuôi kẻ và cánh cửa chạm khắc cảnh Xuân, Hạ Thu, Đông và long ly quy phượng) để làm nhà thờ, được đặt trên nền nhà cũ. Trong nhà thờ có bàn thờ, có bộ ngũ sự bằng đồng gồm một lư hương to, 2 con hạc, 2 ống đèn thắp dầu lạc, lư hương đốt đồng (do quận Lê Chân, Thành phố Hải Phòng cung tiến năm 2004). Tượng thạch cao quét nhũ đồng (do Tỉnh hội đông y Nghệ Tĩnh tặng), chuông đồng, trống (do Tỉnh hội đông y Hà Tĩnh tặng)... Nhưng đáng tiếc, tất cả di vật của Hải Thượng Lãn Ông như ống sáo diều chúa Trịnh Sâm ban cho và nhiều tác phẩm khác, qua thời gian đã bị mất mát, thất lạc.
Được biết, hiện “Dự án đầu tư tu bổ tôn tạo quần thể di tích Đại danh y Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác” với ngân sách 21 tỷ đã được Bộ Y tế và Viện bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác làm chủ đầu tư, đang triển khai. Rất nhiều hạng mục công trình sẽ làm sống dậy khu vườn của cụ Hải Thượng Lãn Ông ngày xưa: Khu mộ, tượng đài, khu đón tiếp; khu đền thờ, trong đó có vườn đào, núi Giả, hồ Sen.
Sự Tích Hoa Đào Ngày Xuân
Ngày xưa, ở phía Đông núi Sóc Sơn, có một cây hoa đào mọc đã lâu đời. Cành lá đào sum suê, to lớn khác thường, bóng rậm che phủ cả một vùng rộng.
Có hai vị thần tên là Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây hoa đào khổng lồ này, tỏa rộng uy quyền che chở cho dân chúng khắp vùng. Quỷ dữ hay ma quái nào bén mảng lui đến ắt khó mà tránh khỏi sự trừng phạt của 2 vị thần linh.
Ma quỷ rất khiếp sợ uy vũ sấm sét của hai vị thần, đến nỗi sợ luôn cả cây đào. Chỉ cần trông thấy cành hoa đào là bỏ chạy xa bay. Đến ngày cuối năm, cũng như các thần khác, hai thần Trà và Uất Lũy phải lên thiên đình chầu Ngọc Hoàng.
Trong mấy ngày Tết, 2 thần vắng mặt ở trần gian, ma quỷ hoành hành, tác oai tác quái. Để ma quỷ khỏi quấy phá, dân chúng đã đi bẻ cành hoa đào về cắm trong lọ, nhỡ ai không bẻ được cành đào thì lấy giấy hồng điều vẽ hình 2 vị thần linh dán ở cột trước nhà, để xua đuổi ma quỷ.
Từ đó, hàng năm, cứ mỗi dịp Tết đến, mọi nhà đều cố gắng đi bẻ cành hoa đào về cắm trong nhà trừ ma quỷ. Lâu dần, người Việt quên mất ý nghĩa thần bí của tục lệ này, không còn tin mấy ở ma quỷ thần linh như Tổ tiên ngày xưa. Ngày nay, hoa đào hoa mai tươi thắm khắp nhà nhà vào dịp Tết và sắc giấy đỏ hồng điều với câu đối hòa hợp được trang trí mấy ngày Tết trong không khí vui vẻ, đầm ấm.
Xuân không phải mùa riêng của hoa đào khoe sắc. Nhưng không biết tự bao giờ, nàng Xuân đã chọn loài hoa e ấp nụ cười, ửng hồng cánh mỏng và mảnh mai dáng hình này để mỗi năm một lần hoá thân về với nhân gian.
Ngày thường, chẳng ai để ý đến một loài cây cành lá bơ phờ, héo rũ, thân cành xù xì, qua đông càng quắt lại, đứng khẳng khiu, âm thầm như sắp lụi tàn trong sương giá. Vậy mà chỉ một sớm mai kia, ta bỗng thấy từng nụ, từng nụ hoa chúm chím, từng lộc biếc non tơ như đang ngậm cả mùa xuân đất trời. Thoảng gió đông về là chúng bừng lên sắc hồng phơn phớt diệu kỳ. Giữa trăm hoa muôn hồng ngàn tía, đào hoa kia dẫu bé nhỏ, chẳng kiêu sa nhưng sắc vẻ mơn mởn như má đào con gái, căng tràn sức sống tuổi dậy thì, quả xứng đáng là biểu tượng của mùa xuân, mùa khởi đầu cho một vòng quay bất tận của đất trời.
Nếu đào được mệnh danh là “báo xuân hoa” thì mực tàu giấy đỏ dường như cũng có mối giao cảm kỳ lạ với đất trời. Thứ chữ của Thánh Hiền vốn ung dung, tự tại ấy vậy mà khi xuân về, nhân sinh lại không ngần ngại phô bày, rực rỡ sắc màu “bên phố đông người qua”, cùng tắm nắng, gội mưa trong tiết trời lất phất, se se lạnh.
Hoa đào và thư pháp như tao nhân, mặc khách không hẹn mà gặp mỗi dịp xuân về..
CHUYỆN KỂ VỀ CÀNH ĐÀO VUA QUANG-TRUNG TẶNG NGỌC-HÂN CÔNG CHÚA


Cành đào bích vua Quang Trung gửi báo tin chiến thắng từ Thăng Long vào thành Phú Xuân tặng Ngọc Hân công chúa cách đây 216 năm phải chăng chỉ là một huyền thoại đẹp? Chi tiết này hoàn toàn không có cứ liệu lịch sử! Tuy nhiên, người dân trồng đào Nhật Tân khẳng định đó là một câu chuyện thật 100%. Phần đất đuôi của dinh Lẫm xưa, nơi chuyên trồng đào tiến vua nay hoa đào vẫn rộ mỗi độ gió đông về…
BÍCH ĐÀO - HOA CỦA TRỜI
Áp Tết Ất Dậu, tiết xuân đất Bắc vương vất giá lạnh, lây rây mưa bụi. Giữa một khoảnh đất trồng đào còn sót lại ven Hồ Tây thuộc vùng Nhật Tân, tôi chợt nhớ một hình ảnh đẹp trong lịch sử đã được học: Rằng mùa xuân Kỷ Dậu 1789, sau khi đại chiến quân Thanh, tiến quân vào Ngọc Hồi, vua Quang Trung cho người mang cành hoa bích đào vào thành Phú Xuân tặng Ngọc Hân công chúa. Cành bích đào đó được trồng trên chính vùng đất Nhật Tân - dinh Lẫm xưa, nơi tôi đang đứng cùng ông Nguyễn Văn Sửu – nghệ nhân trồng đào đang từng ngày nơm nớp lo cho số phận cây hoa đào.
Ông Sửu rút chiếc khăn tay ra thấm nước mưa phủ mờ trên cặp kính lão, giọng nói đầy ngậm ngùi: “- Chẳng bao lâu nữa, sắc thắm đào bích chính gốc Nhật Tân sẽ biến mất, nhường chỗ cho các tòa nhà cao tầng biệt thự phục vụ công cuộc mà người ta cho là hiện đại hóa đất nước, bất chấp người dân lên tiếng gìn giữ cây đào truyền thống”. Trước vườn đào, thoắt quên đi cái sự buồn, ông Sửu say sưa kể về những cây đào ông chăm chút gặp được người khách mua tâm đắc.
Ông Sửu đầy hào hứng khi nhắc tới câu chuyện cành đào vua Quang Trung tặng Ngọc Hân công chúa, nhưng niềm vui vuột biến mất trên khuôn mặt ông, ông bảo: “Cho tới nay, các nhà sử học vẫn cho câu chuyện ấy là truyền thuyết. Nhưng cụ nội tôi kể cho ông tôi nghe, ông tôi kể lại với bố tôi, rồi bố tôi kể cho tôi. Bốn đời người, tới nay tôi gần 70 tuổi, vậy mang tuổi tác của 4 đời người ra để so sánh với mốc lịch sử nửa đầu thế kỷ XVIII thì gần lắm! Tôi nghĩ, đôi khi các nhà sử học cũng quên những chi tiết khi ghi chép, và có thể câu chuyện này là một sự quên lãng”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét