Thứ Bảy, 8 tháng 5, 2010

ĐẠI DANH TUỆ TĨNH_THIỀN, Y VÀ TÂM
 

                                         
  “Danh khôi nhị thập giáp tiêu Trần giám.
   Sứ mệnh thập toàn tỉnh Băc y”.
          “Danh đầu nhị giáp, nêu gương khoa bảng đời Trần,
          Sứ mệnh vẹn tròn, trổ tài y học đất Bắc.”

Giở lại những trang sử vàng của Ông Cha ngày xưa Ngọc Ánh tôi đã tìm thấy một nhân kiệt rất đặc biệt. Với sự khâm phục trong lòng Ngọc Ánh tôi muốn góp nhặt một ít lá khô trong rừng lịch sử của dân tộc. Ánh muốn tô một về những gì của người đã cho luôn sống mãi trong lòng chúng ta. Trong lịch sử thì có rất nhiều danh nhân nổi tiếng, nhân vật Ngọc Ánh muốn nhắc đến đó là Tuệ Tĩnh vào thời vua Tần Dụ Tông (1341 – 1369 ) thế kỷ thứ XIV. 
Tuệ Tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh. Khi đi tu Ông lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh (Huệ Tĩnh) thân từ một gia đình bần nông, cha là Nguyên Công Vỹ, me là Hoàng Thị Ngọc ở Nghĩa Lư, huyện Dạ Cẩm, Hồng Châu (nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cầm Vũ, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Hưng. Ông sinh năm 1343, tại làng Nghĩa Phú, Tống Văn Thái, Phủ Thượng Hồng , Huyện Cấm Giang, tỉnh Hải Dương. Lúc lên 6 tuổi cha mẹ ông đều mất, Ông đựơc nhà sư chùa Hải Triều, xã Hải Triều, Yên Trang (tức chùa Giám ngày nay) đưa về nuôi và cho ăn học ở chùa Keo (Thái Bình). Vì nơi đó bị đất lở, đã dời đến xã Tân Sơn cùng huyện Cẩm Bình). Đến 10 tuổi, Bá Tĩnh lại được sư cụ chùa Giao Thủy ở Sơn Nam (Nam Đình) đưa về cho ở học với nhà sư chùa Dũng Nhuệ trong huyện. ở đầy, ông được gọi là Tiểu Huệ, nên có biệt danh là Huệ Tĩnh. Ông được học vǎn và học thuốc để giúp việc chữa bệnh ở chùa.
Đến 22 tuổi, ông đi thi hương trúng bảng, nhưng vẫn ở chùa đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. ông tiếp tục việc chữa bệnh giúp dân ở chùa này và phát triển thêm một số cơ sở chữa bệnh ở các chùa lân cận, như chùa Hộ Xá (Nghĩa Xá). Nǎm Giáp Dần (1374), niên hiệu Long Khánh (Trần Duệ Tông), ông đậu đệ nhị giáp tiến sĩ tức Hoàng Giáp. Ông thông minh lỗi lạc, nhưng không ra làm quan mà ở lại chùa thuộc Hạc Giao Thủy và Hạc Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương để tu hành, theo nghề làm thuốc. Tuệ Tĩnh gây phong trào trồng thuốc tự túc ở vườn chùa, vườn đền, ở gia đình và viết sách thuốc để phổ biến, dạy cho dân chúng dùng thuốc nam để chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe phục vụ nhân dân nghèo khổ. Tuệ Tĩnh đã nghiên cứu những cây cỏ ở Việt Nam viết thành sách thuốc với ý nghĩa các bài thuốc giản dị thường dùng trong dân gian, đó là thột thời kỳ mà thuốc bắc đang thịnh hành . Ông đã trao dồi kinh nghiệm trị bệnh của các trung y, và xây dựng được một sự nghiệp y dược có tính chất dân tộc, đại chúng và sáng tạo. Nǎm 55 tuổi ông bị bắt đi sứ sang Trung Quốc để chữa bệnh cho Tống Vương Phi (vợ vua Minh). Ông đã chữa khỏi bệnh sản hậu nên được phong là "Ðại Y Thiền Sư". Ông được nhà Minh giữ lại làm việc ở Viện Thái y, rồi mất ở bèn ấy, không rõ nǎm nào. Hiện nay ở các đền thờ ông, có các câu đối ngụ ý về các sự tích đó. Thí dụ ở đền bia làng Văn Thai có câu: 
Hoàng giáp phương danh đằng Bắc địa, Thánh sư diệu dược trấn Nam Bang. Ðược tạm dịch như sau: Thi đậu Hoàng giáp tiếng lừng Trung Quốc Chữa bệnh thần diệu tài quán Nam Bang. 
Về phật học, ông đã giải nghĩa bằng chữ nôm sách Thiền tông khóa hư lục của vua Trần Thái Tông soạn: Về y học ông đã soạn các sách Dược tính chỉ nam và Thập tam phương gia giảm (theo Hải Dương phong vật chí), nhưng phần nguyên tác của Tuệ Tĩnh không còn tròn vẹn do binh hỏa, cụ thể các thư tịch của ta đã bị quân nhà Minh phá hủy hòi đầu thế kỷ XV khi chúng sang xâm chiếm nước ta. Những tác phẩm còn lại đến nay đều do người đời sau biên tập lại với tài liệu thu thập trong nhân dân. Hiện có:

1 Bộ Nam dược thần hiệu, do Hòa thượng Bản Lai ở chùa Hồng Phúc ở Trung Đô (phố Hòe Nhai, dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay) biên tập, bổ sung và in lại nǎm 1 761, gồm Bản thảo dược tính 499 vị, (bằng thơ) và 10 khoa chữa bệnh, với 3932 phương thuốc nam ứng trị 184 loại bệnh, kèm theo môn thuốc chữa gia súc.
2. Nam dược chính bản, do triều Lê Dụ Tông đổi tên là Hồng nghĩa giác tư y thư và in lại nǎm 1717, quyển thượng gồm: Nam dược quốc ngữ phú (danh từ được học 590 vị thuốc nam). Trực giải chỉ nam dược tính phú (220 vị thuốc nam và một thiên Y luận về lý luận cơ bản, âm dương ngũ hành, tạng phủ, kinh mạch (thiên này xuất hiện ở bản in lại nǎm 1 723: AB. 288)
3 Thập tam phương gia giảm, phụ Bổ âm đơn và Dược tính phú (242 vị.) bằng chữ Hán, gồm 13 cổ phương đông y và phương Bổ âm đơn do tác giả sáng chế cùng phương pháp. Bài diễn ca đã tham khảo có cả lời mở đầu và lời kết. Đại thể về phần 13 phương và các vị thuốc gia giảm thì diễn tương đối đúng, trừ một vài chi tiết. Nhưng về phần diễn đạt các câu văn thì không thật sát nguyên bản và có khi đã phát triển rộng ra, dẫn tới sai lệch với tính nguyên tác. Thí dụ: lời tựa, bản 2 có những những từ Hạnh viên, Xuân Phong thì các bài diễn là Hạnh đàn nhân thuở hồi xuân. Câu mẫn sinh dân chi yểi trát, trạch hiền triết chi phương thang thì diễn là Vâng lời đức thánh Phục Hy, thương chưng yểu trát bất thì kham ngu. Câu Cầu y bất nhược tu thân tế nhân bản năng tích phúc, Cố sự lịch khả thành hạnh viên dã, Chữ sư lịch đã được diễn là chỉn nay sư lịch tài hèn ở lời mở đầu, lại còn được diễn ở lời kết một lần nữa. Sãi nay sư lịch vốn hèn, thhuật trọng thượng cổ thánh hiền chép hiền chép chơi...
1. Theo thần phả đến Yên Lư, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.
2. Quốc sử di biên của Sứ quán triều Nguyễn nói Tụê Tĩnh mất ở Giang Nam Trung Quốc.
3. Theo Đào Duy Anh nói ở lời đầu sách dịch Thiền tông khóa hư lục, thì vǎn vần chữ nôm xưa nhất là mấy bài phú đời Trần. Về vǎn xuôi thì sách giải nghĩa Thiền tông khóa hư lục của Tuệ Tĩnh cuối thời Trần là xưa nhất.
Gia giảm dùng chữa các loại bệnh ngoại cảm, ôn dịch và nội thương tạp bệnh (Thư viện Hán Nôm VHc 3626).
4. Thập tam phương gia giảm và Bổ âm đơn đã được đời sau diễn dịch ra ca nôm và in ở Hồng Nghĩa giác tư y thư quyền hạ nǎm 1723 (AB 306).
5. Một bài Nhân thân phú (tương truyền, của Tuệ Tinh), khái quát về lý luận cơ bản người tương ứng với thiên nhiên, cơ nǎng sinh lý, tạng phủ khí huyết và đường hướng dưỡng sinh chú trọng giữ gìn tinh khí thần để nâng cao tuổi thọ.
Truyền thống y học của Tuệ Tĩnh đã phục vụ đắc lực sức khỏe nhân dân từ bao đời nay, sự nghiệp trước tác của ông đã giữ một vị tri trọng đại nhất trong lịch sử y học Việt Nam. Vì vậy, nhân dân ta đã lập đền thờ ông: Đền Thánh thuốc nam ở quê hương thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, đền Bia ở thôn Vǎn Thai, xã Cẩm Vǎn, miếu Nghè ở chùa Giám, xã Tân Sơn, huyện Cẩm Bình, tinh Hải Hưng. Ngoài ra, ông còn được thờ là Thành hoàng ở xã Yên Lư, huyện Thủy Nguyên, ngoại thành Hải Phòng (có sắc phong là Thượng thượng dẳng phúc thần nǎm 1572, theo thần phả do Nguyễn .Bính, Đông các đại học sĩ ở Viện Cơ mật triều Lê soạn).
Phép Nhiếp Sinh của đại thiền – y Tuệ Tĩnh :
Bế tinh, dưỡng khí tồn thần,
Thanh tâm, hỏa dục, thủ thân luyện hình


Đó là bảy phương pháp chăm sóc của Tuệ Tĩnh.

1.Bế tinh la bế đóng lại tinh và vật chất cơ bản của cơ thể giúp dinh dưỡng cơ quan phủ tạng. Chúng ta tìm hiểu bí quyết sống khỏe và trường thọ này vì nó liên quan mật thiết đến Tiên Thiên Khí Công, đồng thời bổ túc thêm những điều cần yếu chưa được đề cập. Hai câu trên bao gồm bảy ý niệm, tất cả đều cần được hiểu rõ và thực hành trong đời sống hằng ngày để sống lâu một cách khỏe mạnh, sáng suốt.Tinh; tức chất tinh túy được cơ thể chắt lọc từ thức ăn, từ các chất bổ dưỡng nhứt. Tinh đầy đủ thì sức khỏe khang kiện, tính tình vui vẻ, hắng hái, yêu đời. tinh thiếu thốn thì thường bệnh hoạn,ốm đau, bi quan, buồn chán. Tinh bị mất nhiều nhất trong quan hệ vơ chồng, nam nữ. Nam giới thường bị mất mát nhiều hơn nữ giới, nhưng không có nghĩa là nữ giới không bị tổn hại nếu lạm dùng tình dục. Đàn ông thường có tuổi thọ ngắn hơn đàn bà là do tiêu phí tinh quá nhiều. Nhiều người già trước tuổi, sức khỏe suy kiệt nhanh chóng đến độ đi đứng không vững cũng do sự phí phạm chất tinh túy của cơ thể này. Ông vua điển hình của sự phí phạm tinh túy đến nỗi phải nằm trên long sàng là Lê Long Đĩnh, còn được gọi là Lê Ngọa Triều. Ngoài ra, trong lịch sử nhân loại có rất nhiều người do có thế lực,do giàu có đã quá lạm dụng tình dục, đưa đến hậu quả tất yếu là giảm sức khỏe, tinh thần suy kiệt, đầu óc mê muội, đời sống bị rút ngăn trong tối tăm, mịt mờ. Nhiều người, kể cả người có tuổi vẫn không biết chế ngự, vẫn không biết hạn chế,luôn luôn phí phạm tinh chất trong các cuộc truy hoan liên tục, đưa đến tình trạng bại hoại từ vật chất đến tinh thần. Vì thế Tuệ Tĩnh khuyên chúng ta nên bế tinh.
2. Dưỡng khí: theo cổ đông y ‘’ Khí’’ là nguồn năng lượng vô hình luôn có trong cơ thể và cũng là hoạt động của các tổ chức tạng phủ. Cần phải biết vận hành khí để duy trì sức sống.
3. Tồn thần: theo y học cổ truyền ‘’ Thần’’ là thể thăng hoa của ‘’tinh’’ và ‘’khí’’ hợp lại. Thần biểu hiện của sức sống. Thần có thể là tình trạng ý thức, tri giác vận động của con người. Vậy tồn thần để bảo vệ bản lĩnh sống thường ngày.


4. Thanh tâm: theo tâm lý học là không đua đòi, luôn ung dung, không để danh lợi, ngoại vật cám dỗ

5. Quả dục: Là giảm bớt sự ham muốn, thèm khát về mọi mặt như công danh, sắc đẹp nhục thể...
6. Thủ thân: ‘’Thủ’’ là giữ gìn bảo vệ; ‘’Chân’’ là sự thật. Vậy cần phải tôn trọng giữ gìn mọi sự thật trong cuộc sống để Tinh - Khí - Thần không bị anh hưởng.
7. Luyện hình: Là phương pháp vận động cơ thể như cơ, khớp... để các hoạt động cần thiết của cơ quan tạng phủ, giúp khả năng thích ứng và sức chịu đựng của cơ thể trong mi6 trường sống( người xưa gọi cơ thể ngừoi là linh khi )
Tóm lại, Nhiếp sinh có thể hiểu là sự chăm sóc sức khỏe của Thầy Tuệ Tĩnh. Nó vừa nâng cao thể lực, vừa rèn luyện bản lĩnh tích cực về tinh thần cho mọi người. Và sức khỏe là một hòan hảo về thể chất, tinh thần và phúc lợi xả hội.
Ông đã đi qua đời sống này, đã cứu nhân độ thế. Trong 30 năm hoạt động ở nông thôn, Khi trở lại Chùa Yên Trang Ông đã tu bổ lại chùa này với một số chùa khác. Tổng cộng là 24 ngôi chùa ở hạt Sơn Nam và quê hương, huấn luyện y học cho các tǎng ni để mở rộng việc chữa bệnh làm phúc. Biến các ngôi chùa này thành y xá. Ông cũng đã từng sử dụng 74 ngôi chùa làm nơi chữa bệnh. Truyền thống của Tuệ Tĩnh đã được người đời sau thừa kế và phát huy rạng rỡ trong việc bảo vệ sức khỏe nhân dân và phát triển y học dân tộc.
Người đời tôn tụng ông là tổ sư nghề y dược nước Việt, vị thánh thuốc Nam. Ông là một nhà sư y, một người mở đường cho sự nghiệp nghiên cứu thuốc nam, xây dựng nền móng cho y học dân tộc, được nhân dân ta tôn vinh bậc Y tổ thuốc nam, một người thầy thuốc vĩ đại, ông đã làm rạng rỡ nền y học nước nhà và là người đề xướng khẩu hiệu “Nam dược trị Nam nhân”, đó là đại danh y Tuệ Tĩnh - Bậc thánh Y Việt Nam.
Tuy bia của Nguyễn Danh Nho khắc năm 1699 như địa phương đã xác nhận, nhưng cũng đã được Nguyễn Xuân Dương dẫn lại trong Đông y tùng báo năm 1929 khi khẳng định Tuệ Tĩnh đậu khoa Tân Mão (1351). Còn Lê Huy Phác nói Nguyễn Tuệ tĩnh đậu khoa Tân Mão(1351). Còn Lê Huy Phách nói Nguyễn Bá Tĩnh đậu năm 1374 dưới triều Trần Duệ Tông chắc cũng đã dựa vào một tư liệu khác, có lẽ là Đại Việt lịch đại đăng khoa lục theo bản sao của Nam Phong. Vì các khoa thi thái học sinh như thường lệ, đều không ghi tên người đậu, và từ năm 1345 không được sử chép nữa, thì ta cũng có thể tìm được việc thi đậu của Tuệ Tĩnh vào khoa Tân Mão(1351). Hơn nữa những người đậu Thái học sinh được thi vào thi đình, thì Tuệ Tĩnh đã có tiêu chuẩn dự thi, Về đệ nhị giáp của khoa này, sử chỉ ghi La Tu mà không có Tuệ Tĩnh, cũng như đệ tam giáp Lê Hiến Tứ để khuyết, thì ta có thể hiểu rằng sử chỉ chép tên, những người được bổ dụ làm quan mà thôi. Như vậy, có nhiều khả năng Tuệ Tĩnh đã đậu Thái học sinh 1351, và sau lại thi đậu Hoàng Giáp năm 1374, nhưng sau đó đi tu, không làm quan, nên sử đã không chép.
Y đạo đã tròn, Phật sự viên mãn, Tuệ Tĩnh còn khắc khoải bao nỗi niềm, bao mong mỏi. Ông đau đáu về cố hương. Không cần danh vị Đại Y thiền sư mà vua Minh ban cho, không cầu chức tước trong Thái y viện, không thiết bổng lộc, không màng tới bài vị trong Y miếu Thăng Long, tâm ông vẫn chỉ mong nắm xương tàn của mình được mang trở về quê hương. Từng con chữ khắc trên mộ phần ông là lời di nguyện ấy: Có ai về nước Nam, cho tôi về với! Sao mà thê lương thế, Tuệ Tĩnh ơi! 
Tuệ Tĩnh đã tổng hợp và để lại những bài thuốc kinh nghiệm quý báu. Đó là một kho tàng y học giá trị to lớn cho sự bảo tồn, thừa kế và phát huy vốn y, dược cổ truyền của nhân dân ta.
“Khuôn vàng, thước ngọc người xưa
Lưu truyền hậu thế vẫn chưa phai mờ

Khuyên người chớ có thờ ơ
Theo đó tập luyện đừng chờ đợi chi”

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét