I. GIA CÁT LƯỢNG


Gia Cát Lượng (Trung: 诸葛亮 <諸葛亮> (Gia Cát Lượng)/ Zhūge Liàng) tự là Khổng Minh (181–234)đạo hiệu là Ngọa Long tiên sinh. Gia Cát Lượng là người đất Dương Đô (nay thuộc huyện Nghi Nam, tỉnh Sơn Đông) quận Lang Nha đời Thục Hán, sinh vào mùa Thu năm Tân Dậu (Tam Quốc), tự Khổng Minh (孔明). Gia Cát (諸葛) là một họ kép ít gặp. Ông có 3 anh em, anh cả Gia Cát Cẩn làm quan bên Đông Ngô, em thứ là Gia Cát Quân không làm quan. Ông là người tài giỏi nhất nên người đời sau ví Lưu Bị được rồng trong số 3 người (Lưu, Tào, Tôn). Tương truyền ông học giỏi một phần nhờ vợ là Hoàng Nguyệt Anh, một người rất xấu nhưng có tài năng, con gái của danh sĩ Hoàng Thừa Ngạn ở Nhữ Nam. Người đời mới có câu thơ:
Mạc học Khổng Minh trạch phụ
Chi đắc A Thừa xú nữ
Ông mồ côi từ bé, thuở trẻ thường tự ví tài mình như Quản Trọng, Nhạc Nghị.Nhưng theo Thủy Kính tiên sinh thì:" Tài của ông phải được ví với Khương Tử Nha làm nên cơ nghiệp 800 năm của nhà Chu và Trương Tử Phòng làm nên cơ nghiệp 400 năm của nhà Hán.". Sau tị nạn sang Kinh Châu rồi đến ở đất Nam Dương thuộc vùng Long Trung, chỗ ở có trái núi Ngọa Long cương, nhân thế tự gọi là Ngọa Long tiên sinh, tự mình cày ruộng, thích làm ca từ theo khúc "Lương Phủ Ngâm".
Theo sách "Khổng Minh Gia Cát Lượng", chữ "Cát" trong họ Gia Cát của ông có nguồn gốc từ việc ông là dòng dõi của Cát Anh, một tướng theo Trần Thắng khởi nghĩa chống Tần. Cát Anh có công, bị Trần Thắng giết oan. Khi Hán Văn Đế lên ngôi đã sai người tìm dòng dõi Cát Anh và cấp đất Gia làm nơi ăn lộc. Một chi sau này lấy sang họ Gia Cát - ghép chữ "Cát" cũ và đất "Gia"
Long Trung đối sách
Khi Lưu Bị ở Tân Dã, có đến Tư Mã Đức Tháo bàn việc thiên hạ. Tư Mã Đức Tháo có nói: "Bọn nho sinh đời nay chỉ là một phường tục sĩ, hạng tuấn kiệt chỉ có hai người, đó là Ngọa Long và Phượng Sồ. Ngọa Long tức Gia Cát Khổng Minh, Phượng Sồ tức Bàng Thống tự Sỹ Nguyên. Có được 1 trong 2 người đó thì có thể định được thiên hạ". Sau có Từ Thứ, 1 nhân vật có mưu lược, tiến cử cho Lưu Bị. Lưu Bị có hỏi tài năng của Khổng Minh so với ngài thì thế nào, Từ Thứ có nói: "Tôi so với ông ấy như ngựa so với Kỳ lân, như quạ so với Phượng hoàng, ông có ông ấy như Chu công về Lã Vọng, như Hán vương được Trương Lương". Lưu Bị 3 lần thân đến Long Trung mời Khổng Minh ra giúp, tôn ông làm quân sư. Lúc bấy giờ là năm 208, Lưu Bị 47 tuổi, Gia Cát Lượng chỉ mới 27 tuổi. Ông là vị quân sư và đại thần của nước Thục thời hậu Hán. Ông là một chính trị gia, nhà quân sự, học giả. Trong quân sự, ông đã tạo ra các chiến thuật như: Bát trận đồ (Hình vẽ tám trận), Liên nỏ (Nỏ Liên Châu, tên bắn ra liên tục), Mộc ngưu lưu mã (trâu gỗ ngựa máy ). Tương truyền ông còn là người chế ra đèn trời (Khổng Minh đăng) và món màn thầu. Thân thế Gia Cát Lượng được biết tới nhiều qua tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa.
Khổng Minh đã giúp Lưu Bị cùng với Tôn Quyền đánh bại Tào Tháo ở Xích Bích, lấy Kinh Châu, định Tây Xuyên, dựng nước ở đất Thục, cùng với Ngụy ở phía bắc, Ngô ở phía đông làm thành thế chân vạc. Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Khổng Minh giữ chức Thừa tướng, một lòng khôi phục lại cơ nghiệp nhà Hán, phía đông hòa Tôn Quyền, phía nam bình Mạnh Hoạch.
Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi, Lưu Bị đã muốn lấy lại Kinh Châu và tháng 7 năm đó, để trả thù cho Quan Vũ nên Lưu Bị đã tuyến bố tuyệt giao với Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền. Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược "liên Ngô chống Tào" của Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng biết đánh Ngô hại nhiều hơn lợi nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị nên dẫn đến bi thảm Hào Đình, thất bại ở Tỷ Quy.
Lưu Bị trước khi chết đã ủy thác việc nước cho Gia Cát Lượng, nói rằng: "Tài năng của ông cao hơn Tào Phi (con trai Tào Tháo, lúc này là vua nước Ngụy) gấp 10 lần, nhất định có thể làm cho nước nhà ổn định, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước. Nếu như Lưu Thiện con tôi không làm được gì, mong ông giúp đỡ còn như nó bất tài thực sự, ông có thể thay nó". Lưu Bị còn để lại di chúc bắt Lưu Thiện phải kính nể Gia Cát Lượng như cha đẻ.
Nhà vua Lưu Thiện mới 17 tuổi không có tài, Gia Cát Lượng phải lo lắng toàn cục, chỉnh đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Dưới sự cai trị của ông, nước Thục dần dần mạnh lên. Sau khi trừ bỏ được những lo lắng trong nước, Gia Cát Lượng đã đem quân xuống phía nam để thu phục dân bản địa. Gia Cát Lượng ra quân không lâu đã bắt sống được Mạnh Hoạch, một thủ lĩnh có tiếng. Ví dụ nổi tiếng về việc Gia Cát Lượng "chiếm lòng người" chính là việc 7 lần bắt, 7 lần tha Mạnh Hoạch, cho đến khi Mạnh Hoạch thực sự chịu phục.
Gia Cát Lượng Bắc phạt cả thảy là 7 năm, phát động 4 lần đánh nhau. Mấy lần xuất quân đều chưa giành được thắng lợi hoàn toàn do Lý Nghiêm trễ nải cấp lương nên giả truyền thánh chỉ, 2 lần khác do Lưu Thiện nghe lời gièm pha mà nửa chừng hạ chiếu lui quân.
Tháng 8 năm 234, do khó nhọc mà Gia Cát Lượng sinh bệnh rồi mất, lúc bấy giờ ông mới 54 tuổi, được phong tặng là Trung Vũ Hầu người đời thường gọi là Gia Cát Vũ Hầu. Ông được chôn tại ngọn núi Định Quân ở vùng Hán Trung. Ông mất mà vẫn không trung hưng được nhà Hán, nước vẫn ở thế chân vạc chia ba. Ba mươi năm sau khi ông mất, Lưu Thiện đầu hàng nước Ngụy, nước Thục bị diệt vong.
Suốt hai đời vua là Lưu Bị và Lưu Thiện, mọi việc chính trị, quân sự và kinh tế ở Thục đều do một tay Khổng Minh chủ trương và thi hành. Ông giỏi về binh thư binh pháp, có tài về nội trị, ngoại giao, được xem là văn võ kiêm toàn, tài đức lưỡng bị... nên được hậu thế gọi là "vạn đại quân sư", coi là một tấm gương sáng cho muôn thuở.
Gia Cát Lượng trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa
Lưu Bị tam cố thảo lư (Lưu Bị 3 lần đến lều cỏ)
Gia Cát Lượng là ẩn sĩ ở Long Trung. Tư Mã Huy và Từ Thứ tiến cử ông với Lưu Bị. Thời đó bậc danh sĩ Kinh Châu lan truyền một câu: "Ngọa Long, Phụng Sồ hai người được một sẽ có thiên hạ!". Sau khi Từ Thứ đến với Tào Tháo, Lưu Bị tìm đến Long Trung để thỉnh cầu ông ra giúp nhưng hai lần đầu không gặp mãi đến lần thứ ba mới gặp được nên mới có câu "Lưu Bị tam cố thảo lư". Lưu Bị được Lượng nói kế sách định quốc an bang vô cùng kính phục, muốn mời Gia Cát Lượng xuống núi mưu tính đại sự. Gia Cát Lượng thấy Lưu Bị thật lòng cầu xin nên ông chấp nhận làm quân sư cho Lưu Bị, năm đó Gia Cát Lượng mới có 27 tuổi chính thức bước vào vũ đài chính trị.
Trận đồi Bác Vọng
Sau khi Gia Cát Lượng làm quân sư cho Lưu Bị đã góp nhiều công sức xây dựng binh mã tại Tân Dã. Tào Tháo nghe tin, điều tướng đi đánh Tân Dã.
Lưu Bị giao quyền điều binh cho Khổng Minh. Khổng Minh cho quân mai phục chuẩn bị mọi thứ để tiêu diệt quân Tào tại Bác Vọng. Ông cho Triệu Tử Long và Lưu Bị dụ địch. Hạ Hầu Đôn gần tới đồi Bác Vọng thì thấy Lưu Bị ra đánh rồi rút lui vào thung lũng, cho rằng dù có mai phục ít nên thúc quân tiến vào Bác Vọng. Quân Tào tiến vào rừng tên lửa bắn xuống mịt mù, cây cối hai bên đường cháy to, quân Tào hoảng loạn dẫm đạp lên nhau mà chạy, lương thực toàn bộ bị cháy. Toàn bộ Tào quân bị tiêu diệt, tướng Hạ Hầu Đôn chạy thoát. Từ đó uy tín của Khổng Minh lại càng được nể trọng.
Trận Tân Dã
Sau trận đồi Bác Vọng, Tào Tháo dẫn đại quân đến Kinh Châu. Lưu Tông và mẹ là Sái thị dâng Kinh Châu cho Tào Tháo. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, đem quân đến Tân Dã truy kích Lưu Bị. Khổng Minh bèn lập kế mai phục quân Tào: sai Quan Vũ dẫn 1000 binh đi mai phục phía bờ sông Bạch Hà, quân lính mỗi người mang sẵn một bao cát đợi khi nghe tiếngngựa hí thì ngăn nước sông xả nước cho nước cuốn chảy xuống. Ông lại sai Trương Phi mai phục ở Bác Lăng và dặn thấy quân Tào băng qua thì xông ra mà đánh. Cuối cùng ông saiTriệu Vân chia quân ba mặt Ðông, Tây, Nam, chừa phía Bắc cho quân Tào chạy, thấy có hiệu lửa thì xông ra mặt Bắc mà đánh đồng thời lệnh cho quân lính mang đồ dẫn lửa để sẵn trong nhà dân sau khi mọi người đã chạy đến Phàn Thành.
Sau đó, quân Tào do Tào Nhân, Tào Hồng, Hứa Chử kéo đến. Hứa Chử dẫn quân vào rừng gặp Lưu Bị, Khổng Minh, định lên bắt nhưng bị gỗ, đá cản lại. Còn Tào Nhân, Tào Hồng tiến vào thành Tân Dã bỏ trống. Lúc ấy quân Tào tất cả đều mỏi mệt nên nấu cơm ăn để nghỉ ngơi. Đêm đó, quân Lưu Bị tấn công. Tào Nhân thất kinh chạy ra thì thấy cả vùng lửa cháy ngút trời. Tào Nhân, Tào Hồng đang tìm đường thoát thân thì gặp quân của Triệu Vân ùa ra đánh giết. Quân Tào chạy một lúc nữa lại có con sông chặn trước mặt, nhưng nước cạn nên quân Tào không lo nữa, dẫn quân qua sông. Quan Vũ phục ở mé trên, bèn cho quân xả nước xuống, nước chảy xuống như thác vỡ bờ cuốn trôi quân Tào vô số. Tào Nhân, Tào Hồng dẫn tàn binh trốn chạy, bỗng đâu gặp Trương Phi, may nhờ có Hứa Chử đến cứu. Sau đó Lưu Bị, Khổng Minh và các tướng thẳng tới Phàn Thành.
Trận Xích Bích
Đoạt 10 vạn mũi tên của Tào Tháo
Trong trận Xích Bích, Khổng Minh đến Giang Đông giúp đỡ đại đô đốc của Đông Ngô là Chu Du chống Tào Tháo. Chu Du từ lâu biết Khổng Minh là "thiên hạ kỳ tài", để người như vậy sống về sau sẽ là họa cho Đông Ngô nên muốn tìm cách hại ông. Đầu tiên Chu Du sai Khổng Minh dẫn quân đi cướp trại Tào Tháo nhưng ông đã khéo léo từ chối. Sau đó, Chu Du sai Khổng Minh trong 10 ngày làm 10 vạn mũi tên nhưng cố tình dặn thợ tên làm chậm nhằm hại Khổng Minh. Nhưng Khổng Minh hẹn trong 3 ngày sẽ làm xong. Chu Du mừng quá bảo Khổng Minh viết tờ quân lệnh. Khổng Minh bèn đến tìm mưu sĩ Lỗ Túc của Đông Ngô mượn 20 chiếc thuyền, mỗi chiếc có chừng ba mươi quân sĩ, trên thuyền dùng vải xanh làm màn che xung quanh, lại bó cỏ với rơm cho nhiều. Lỗ Túc nhận lời, 2 ngày đầu Khổng Minh không làm gì cả. Đến ngày thứ ba, vào đầu canh tư, Khổng Minh bỗng bí mật cho mời Lỗ Túc lên thuyền uống rượu rồi lại sai người lấy dây chạc dài, buộc hai mươi chiếc thuyền liền lại với nhau, rồi bảo quân nhắm bờ phía Bắc thẳng tới. Hôm ấy, sương mù rất nhiều. Đến đầu canh năm, Khổng Minh tiến sát đến thủy trại của Tào Tháo, Khổng Minh sai thủy thủ dàn ngang đoàn thuyền ra rồi đánh trống, hò reo ầm ĩ. Sái Mạo và Trương Doãn thấy sương mù dày đặc sợ có phục binh nên hạ lệnh cho quân sĩ bắn tên ra loạn xạ. Đợi đến gần sáng, Khổng Minh dẫn quân trở về, 20 chiếc thuyền cắm đầy tên của quân Tào, tính ra hơn 10 vạn. Chu Du trông thấy vô cùng kinh hãi, tự thấy tài kém Khổng Minh rất nhiều.
Khổng Minh cầu gió Đông giúp Chu Du
Chu Du muốn đánh hỏa công nhưng mùa đông chỉ có gió tây bắc thổi ngược về phía quân Ngô mà không có gió đông nam thổi về phía quân Tào nên lo lắng thành bệnh. Khổng Minh xin đi cầu gió đông cho Chu Du nổi lửa đốt trại Tào.
Khổng Minh bảo Chu Du hãy truyền xây ngay một đài thất tinh ở chân núi Nam Bình, ông sẽ cầu gió Đông luôn ba ngày ba đêm để giúp Chu Du. Lập tức Chu Du sai cất đài như lời Khổng Minh dặn. Khổng Minh lên đàn thắp nhang, làm phép cầu ba lần, vẫn chưa có gió. Đến canh hai, gió Đông nam thổi tới rất mạnh, quân Ngô nhân cơ hội đó châm lửa phóng hỏa đốt sạch chiến thuyền quân Tào. Nhờ "gió Đông nam của Khổng Minh" mà quân Ngô đại thắng quân Ngụy, Chu Du không bị nỗi nhục mất nước, mất vợ nên về sau thi sĩ đời Đường Đỗ Phủ có 2 câu thơ:
"Gió Đông nếu chẳng vì Công Cẩn
Đồng Tước đêm xuân khóa Nhị Kiều".
Gia Cát Lượng vào Tây Xuyên bắt Trương Nhiệm
Sau khi Bàng Thống mất, Lưu Bị gọi Khổng Minh vào Tây Xuyên để đánh chiếm Ích Châu. Khổng Minh giao Kinh Châu lại cho Quan Vũ rồi cùng Trương Phi, Triệu Vân vào Tây Xuyên. Khổng Minh muốn chiếm Lạc Thành nhưng có Trương Nhiệm là người đã giết Bàng Thống đang trấn giữ. Ông xem xét địa hình rồi sai Ngụy Diên đem quân phục ở phía đông cầu Kim Nhạn, Hoàng Trung dẫn quân phục phía hữu, Trương Phi phục sẵn quân ở núi còn Triệu Vân thì chờ Trương Nhiệm chạy qua cầu Kim Nhạn thì chặt gẫy ngay cầu ấy. Phân công xong, Khổng Minh đích thân đi dụ địch. Trương Nhiệm dẫn Trác Ung ra trận, gặp Khổng Minh liền dẫn quân ra đánh, Khổng Minh bỏ xe lên ngựa chạy qua cầu. Trương Nhiệm đuổi theo một quãng thì gặp Huyền Ðức và Nghiêm Nhan đổ ra chặn đánh. Nhiệm toan quay về thì cầu đã bị chặt gẫy. Nhìn bờ phía Bắc thì Triệu Vân chận, liền chạy vào đường nhỏ thì gặp quân phục của Ngụy Diên, Hoàng Trung. Trương Nhiệm chỉ còn vài chục kỵ binh theo sau chạy vội vào đường núi thì Trương Phi xông ra bắt sống. Trương Nhiệm không chịu hàng nên Khổng Minh sai đem ra chém.
Thất cầm Mạnh Hoạch
Mạnh Hoạch (tiếng Hán: 孟獲) là một tộc trưởng đứng đầu các dân tộc ở Nam Trung, phía nam của Thục Hán, thuộc khu vực ngày nay là Vân Nam, miền nam Trung Quốc. Theo Tam Quốc Diễn nghĩa, Mạnh Hoạch đứng đầu các bộ lạc Nam Man và thường xuyên quấy nhiễu và Gia Cát Lượng đã đích thân dẫn quân đến thu phục Mạnh Hoạch. Và cũng theo chuyện này thì Gia Cát Lượng đã 7 lần bắt được Mạnh Hoạch và tha với mục đích thu phục nhân tâm các bộ lạc khu vực này. Mạnh Hoạch sau đó thề trung thành với Thục Hán.Theo chính sử thì Mạnh Hoạch không phải là người thuộc các bộ lạc Nam Man mà là người Hán.
Lục xuất Kỳ Sơn
Sau khi thu phục Mạnh Hoạch, Gia Cát Lượng chỉnh đốn binh mã, nhân Tào Phi vừa mất đem đại quân bắc phạt, ông có tâu với Hậu chủ Lưu Thiện: "Dù biết đánh Tào là lấy yếu đánh mạnh, nhưng nhất quyết phải phạt Ngụy, ta không phạt người ắt người sẽ phạt ta, nay xin Hoàng thượng cho thần đóng quân ở Hán Trung, từ trên cao nhìn xuống như hổ săn Lạc Dương.". Sau đó trong 6 lần Bắc phạt mà sau này các sử gia gọi là "Lục xuất Kỳ Sơn", ông đều đem đại quân đánh ra Kỳ Sơn vì cho rằng nơi đây chính là đất dụng võ,ông nói:" Kỳ Sơn là đầu xứ Trường An, kéo quân vào các quân Lũng Tây tất cả phải qua đường ấy, vả lại, mé trước sát sông Vị, mé sau dựa vào hang Tà Cốc, ra bên nọ vào bên kia, có thể dùng được kế mai phục. Đó là đất dụng võ, cho nên trước hết ta muốn dụng được chỗ địa lợi ấy.",có thể công phá Trường An và Lạc Dương, bình định được Trung nguyên, nhưng tiếc là vì nhiều lí do chưa thể thành công.
Dùng Không thành kế đuổi Tư Mã Ý
Sau khi Mã Tốc để mất Nhai Đình,Gia Cát Lượng về Tây thành,1 thành nhỏ thu thập lương thảo nhưng chẳng mang theo nhiều quân. Tư Mã Ý mang 15 vạn đại quân đuổi đến nơi, ông không những không triển khai quân đối phó mà còn mở cổng thành, có ý mời quan quân Tư Mã Ý vào thành. Còn mình thì ngồi trên thành, gẩy đàn rất bình thản. Tư Mã Ý đến nơi, thấy vậy liền sinh nghi, không dám tiến vào thành vì sợ trong thành có bẫy. Tư Mã Ý nghe tiếng đàn của Gia Cát Lượng, thấy được sự bình thản trong con người ông, càng thêm lo sợ và quyết định rút lui.Sau này khi biết được trong thành chỉ có vài trăm binh sĩ già yếu,mà 1 mình Gia Cát Lượng có thể đẩy lui được đại quân của mình,Tư Mã Ý rất khâm phục và cho rằng mình còn kém tài ông rất nhiều.
Gia Cát Lượng vây cha con Tư Mã Ý ở Thượng Phương cốc
Gia Cát Lượng,7 năm,lục xuất Kỳ Sơn,sau nhiều lần đánh nước Ngụy không thành vì có Tư Mã Ý đối trận,biết rằng muốn phạt Ngụy,định Trung Nguyên phải trừ người này,nên quyết tâm giết Tư Mã Ý. Cuối cùng ông dùng kế lừa cho hàng binh nói với Tư Mã Ý rằng toàn bộ lương thực của quân Thục đều cất giữ tại Thượng Phương cốc. Tư Mã Ý dẫn hai con mang quân tới. Cha con Tư Mã Ý vừa vào hang thì quân Thục ném rơm rạ, củi lửa chặn bít hai đầu. Gia Cát Lượng liền cho quân phóng hỏa thiêu cha con Tư Mã Ý. Nhưng trong lúc Tư Mã Ý tuyệt vọng thì Kỳ Sơn 9 tháng không có mưa bỗng đổ mưa lớn cứu cha con Tư Mã Ý, trời đổ mưa dập tắt hết ngọn lửa, cha con Tư Mã Ý chạy thoát khỏi Thượng Phương cốc. Từ trận này mà có câu "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên". Gia Cát lượng buồn rầu, biết rằng khí số nhà Hán đã tận, trời không giúp ông mà giúp Tào, 1 mình ông khó xoay chuyển càn khôn, nghịch ý trời, lại thêm ngày đêm lao lực mà sinh bệnh.
Mất ở Ngũ Trượng Nguyên và dặn kế giết Ngụy Diên
Khi ra Kỳ Sơn lần thứ 6, Khổng Minh lâm bệnh nặng. Ông gọi Khương Duy lại truyền thụ 24 thiên binh thư do ông viết ra. Sau đó ông dặn dò các tướng phải đề phòng quân Ngụy tới đánh và Ngụy Diên làm phản cùng kế sách đối phó.
Sau khi Khổng Minh mất, Ngụy Diên quả nhiên làm phản nhưng Khổng Minh đã tiên đoán trước nên bày kế cho Mã Đại chém chết Ngụy Diên. Cũng lúc đó, Tư Mã Ý tới đánh, quân Thục đẩy xe có tượng gỗ Khổng Minh ra trận, Tư Mã Ý sợ hãi bỏ chạy. Quân Thục rút an toàn trở về Thành Đô. Sau này trong dân gian có câu: "Gia cát chết vẫn đuổi được Trọng Đạt sống", để nói lên tài năng siêu phàm của ông.
Nhận định
Gia Cát Lượng từ ngày rời lều tranh phò giúp Lưu Bị trung hưng nhà Hán,đã nhiều lần thể hiện tài năng siêu phàm, tuyệt luân, có thể nói 1 tay ông dựng cơ đồ cho nhà Thục Hán,một lòng trung thành, cúc cung tận tụy đến chết mới thôi. Đáng tiếc,đến khi ông mất vẫn chưa thể định được Trung Nguyên khôi phục Hán thất vì vận số nhà Hán đã tận, một mình ông khó xoay chuyển, nghịch ý trời. Tuy vậy tài năng của ông rất được người đời sau yêu mến, kính trọng,khi nói đến tài năng, lòng trung thành người ta thường nhắc đến chuyện Vũ Hầu. Tư Mã Huy nhận xét về Gia Cát Lượng như sau: "Nếu được một trong hai người Ngọa Long (tức Khổng Minh) hoặc Phụng Sồ (tức Bàng Thống) thì có thể định hưng được thiên hạ". Ngay cả các tướng của nhà Ngụy cũng rất kính trọng ông, sau này, khi đem quân phạt Thục, tướng Ngụy là Chung Hội khi qua núi Định Quân có đến mộ bái tế ông. Người đời sau có câu:"Vạn đại quân sư Gia Cát Lượng, thống nhất sơn hà Lưu Bá Ôn.", đế nói lên tài năng muôn đời của ông.
Gia Cát hay Chư Cát?
Theo từ điển Hán Việt của Thiều Chửu và một số từ điển khác thì chữ 诸 (bính âm là zhū) thường được phiên là chư, vậy thì tên ông là Chư Cát Lượng (tiếng Hán: 诸葛亮; bính âm: Zhūgé Liàng)?
Tuy nhiên, nhiều từ điển Hán Việt ghi 2 cách đọc chư và gia, đồng thời ở mục họ 诸葛 (Zhūgé) thì chỉ phiên là Gia Cát.
Truyền thuyết dân gian: Gia Cát Lượng bái sư học Đạo

Gia Cát Lượng là một nhà quân sự nổi tiếng phò tá Lưu Bị của nhà Thục Hán thời Tam Quốc (220-280 SCN). Ông thường được mô tả là mặc một chiếc áo choàng dài và tay phe phẩy chiếc quạt bằng lông hạc.
Hồi nhỏ, khi Gia Cát Lượng lên 8, 9 tuổi vẫn chưa biết nói, gia cảnh lại nghèo, do đó phụ thân ông đã để ông chăn cừu trên một ngọn núi ở gần đó.
Trên núi có một đạo quán, trong đạo quán có một lão đạo sĩ tóc bạc. Lão đạo sĩ mỗi ngày đều ra ngoài đi du ngoạn. Một ngày nọ, ông trông thấy Gia Cát Lượng và thử trêu đùa cậu bé, thì cậu bé cũng đùa lại với ông. Từ đó Gia Cát Lượng và lão đạo sĩ thường trò chuyện với nhau bằng cách ra dấu tay. Lão đạo sĩ thấy Gia Cát Lượng thông minh khả ái nên đã tiện thể trị bệnh cho cậu. Không lâu sau, bệnh câm của Gia Cát Lượng đã được chữa khỏi.
Khi có thể nói được, Gia Cát Lượng vô cùng cao hứng; cậu hướng về lão đạo sĩ để bái tạ. Lão đạo sĩ nói: “Hãy về nhà nói với cha mẹ rằng ta sẽ thu con làm đồ đệ, dạy con biết đọc biết viết, học thiên văn địa lý, và phép dùng binh bằng Âm Dương Bát Quái. Nếu cha mẹ con đồng ý, thì hằng ngày con hãy đến đây học, không được bỏ buổi nào.”
Kể từ đó, Gia Cát Lượng bái lão đạo sĩ làm sư phụ. Bất chấp gió mưa, hàng ngày Gia Cát Lượng đều lên núi nghe giảng. Cậu thông minh hiếu học, chuyên tâm ghi nhớ, sách chỉ xem qua là đã hiểu, nghe giảng xong là đã nhớ. Vì thế lão đạo sĩ ngày càng thêm quý mến cậu.
Nháy mắt đã bảy, tám năm trôi qua.
Một ngày nọ, khi Gia Cát Lượng đang xuống núi và đi qua một cái “am” bỏ hoang, thì bất ngờ một trận cuồng phong thổi tới, kèm theo mưa gió rợp trời dậy đất. Gia Cát Lượng vội lánh vào trong am để trú mưa, thì bỗng nhiên, một người con gái cậu chưa từng trông thấy tới nghênh đón cậu vào trong nhà. Chỉ thấy cô gái này mày nhỏ mắt to, mảnh mai kiều diễm, tựa như tiên nữ hạ phàm. Gia Cát Lượng cảm thấy bị cuốn hút bởi cô gái. Khi trời tạnh mưa, cô gái tiễn cậu ra cửa, cười nói: “Hôm nay chúng ta coi như đã biết nhau. Từ nay về sau khi lên núi xuống núi thì xin hãy qua đây nghỉ ngơi và dùng trà.” Lúc Gia Cát Lượng từ trong “am” đi ra ngoài thì thấy có hơi chút kỳ quái, làm sao nơi chưa từng đến này lại có người ở.
Từ đó về sau, mỗi lần Gia Cát Lượng tới am, người con gái không chỉ ân cần tiếp đãi, mà còn có thịnh tình muốn giữ lại dùng cơm. Ăn cơm xong hai người không chỉ cười nói mà còn đánh cờ giải khuây. So với đạo quán, nơi đây quả thực là một thế giới khác hẳn. Gia Cát Lượng bắt đầu mê muội mà không tự nhận ra.
Tâm trí Gia Cát Lượng trở nên bị ảnh hưởng, và cậu cảm thấy chán nản khi học tập. Sư phụ giảng đến đâu thì quên đến đó, lời giảng đi vào tai này rồi xuất ra tai kia, không thể ghi nhớ, lúc đọc sách thì không biết là nói về cái gì, càng xem càng không nhớ.
Lão đạo sĩ biết có vấn đề, bèn gọi Gia Cát Lượng đến, thở dài một tiếng rồi nói: “Hủy cây thì dễ, trồng cây thì khó. Ta đã tốn quá nhiều công sức vì ngươi rồi.”
Gia Cát Lượng nghe sư phụ nói biết có chuyện, vội cúi đầu nói: “Sư phụ! Con sẽ không cô phụ một phen khổ tâm của ngài.”
“Lời này hiện tại ta không thể tin”, lão đạo sĩ nhìn Gia Cát Lượng và nói. “Ta thấy ngươi là đứa trẻ thông minh, định dạy ngươi thành tài, nên mới trị bệnh cho ngươi, thu ngươi làm đồ đệ. Mấy năm trước ngươi thông minh cần mẫn, sư phụ ta khổ tâm dạy ngươi cũng không cảm thấy khổ; nào ngờ giờ đây ngươi từ cần mẫn thành lười nhác, tuy thông minh mà cũng uổng công, lại còn nói sẽ không cô phụ một phen khổ tâm của ta, ta tin sao được?”
Lão đạo sĩ lại nói: “Gió không thổi, cây không động, thuyền không đảo, nước không đục.” Nói rồi chỉ vào cây cổ thụ bị rất nhiều dây mây cuốn vào ở trong sân cho Gia Cát Lượng xem. “Ngươi xem, cái cây kia tại sao sống dở chết dở, không thể tăng trưởng lên được?”
“Bởi vì dây mây cuốn rất chặt vào nó khiến nó không lớn được”, Gia Cát Lượng đáp.
“Đúng rồi, cái cây này ở trên núi, nơi đất đá khô cằn, rất cực khổ nhưng vẫn sống tốt vì nó quyết chí mọc rễ xuống dưới, đâm cành lên trên, không sợ nóng, không sợ lạnh, nên càng ngày càng cao lớn. Thế nhưng cái dây mây chỉ cuốn một lúc mà nó đã không lớn lên được, đây gọi là ‘lạt mềm buộc chặt’ đấy!”
Vốn thông minh nhanh trí, Gia Cát Lượng không giấu giếm mà hỏi ngay sư phụ: “Sư phụ, sao ngài biết chuyện?”
Lão đạo sĩ nói: “Gần nước biết tính cá, gần núi rõ tiếng chim. Ta xem thần sắc ngươi, quan sát hành động của ngươi, còn không biết tâm sự của ngươi hay sao?” Lão đạo sĩ ngừng lại một lúc rồi nghiêm sắc mặt, nói: “Nói thật cho ngươi rõ, đứa con gái mà ngươi thích kia chẳng phải là người, nó nguyên là một con tiên hạc trên Thiên Cung, chỉ vì ăn vụng hội bàn đào của Vương Mẫu mà bị Thiên Cung đánh hạ xuống để chịu khổ. Tới nhân gian, nó hóa thành mỹ nữ, văn võ thì không, cày bừa chẳng biết, chỉ biết tầm hoan tác nhạc. Ngươi thấy tướng mạo nó đẹp, nhưng nó chỉ biết có ăn ngủ thôi. Ngươi cứ thần hồn điên đảo thế này, cuối cùng chẳng làm nên trò trống gì đâu. Nếu không theo nó chiều ý nó, nó còn làm hại ngươi.”
Gia Cát Lượng nghe xong sợ quá, vội hỏi xem phải làm sao.
Lão đạo sĩ nói: “Con tiên hạc này có thói quen, là mỗi khi đêm đến thì nó hiện nguyên hình, bay lên thiên hà tắm rửa. Lúc ấy, ngươi tiến vào phòng nó, lấy y phục nó đem đốt đi, y phục nó là mang từ trên Thiên Cung xuống. Bị đốt rồi thì nó không thể hóa thành mỹ nữ được nữa.”
Gia Cát Lượng nghe lời sư phụ dặn dò và rời đi. Trước khi đi, lão đạo sĩ đưa cậu một cây gậy đầu rồng và nói: “Con hạc này khi phát hiện trong am phát hỏa, sẽ lập tức từ thiên hà phi trở xuống, gặp ngươi đang đốt xiêm y của nó, tất không chịu thua. Nếu nó làm hại ngươi, hãy dùng quải trượng này đánh nó, nhớ đấy!”
Giờ Tý đêm hôm đó, Gia Cát Lượng nhẹ nhàng vào trong am, mở cửa phòng, quả nhiên thấy trên giường có một bộ xiêm y, nhưng không thấy người đâu. Cậu lập tức nhóm lửa đốt cháy bộ xiêm y.
Tiên hạc đang lúc tắm rửa trên thiên hà, đột nhiên thấy trong lòng bất an, vội vàng đi xuống nhìn quanh thì thấy trong am có lửa, vội vàng hét to rồi phi trở xuống. Khi thấy Gia Cát Lượng đang đốt xiêm y, nó nhào tới và dùng mỏ mổ vào mắt Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng nhanh mắt nhanh tay, cầm lấy quải trượng, lập tức đánh con hạc rớt xuống đất. Cậu vội chìa tay ra chộp nhưng chỉ nắm được cái đuôi. Tiên hạc liều mạng vùng vẫy thoát ra, vỗ cánh thật mạnh rồi bay vọt lên không trung, nhưng đám lông đuôi thì bị Gia Cát Lượng giứt đứt hết.
Tiên hạc bị cụt đuôi, không còn giống những tiên hạc khác trên Thiên Cung nữa nên vô cùng xấu hổ. Từ đó nó không dám lên thiên hà tắm rửa nữa, cũng không thể biến lại thành mỹ nữ vì đã bị đốt mất xiêm y, đành vĩnh viễn ở tại nhân gian, chui vào lẫn lộn với bầy bạch hạc.
Từ đó Gia Cát Lượng không quên bài học này, đem đám lông đuôi tiên hạc đi cất giữ cẩn thận, lấy đó làm tấm gương để răn mình.
Từ đó về sau Gia Cát Lượng ngày càng cần mẫn, phàm sư phụ giảng gì, đọc sách gì thì đều ghi nhớ, tâm lĩnh thần hội, biến chúng thành thứ của bản thân mình. Lại qua một năm nữa, đúng vào ngày Gia Cát Lượng đốt họa bì của mỹ nữ, lão đạo nhân cười nói với Gia Cát Lượng: “Đồ đệ này, ngươi theo ta đã chín năm rồi, sách gì cần đọc thì đã đọc rồi, điều gì cần truyền thụ thì đã nghe rồi. Có câu nói ‘sư phụ lĩnh tiến môn, tu hành tại cá nhân’, ngươi nay đã 18 tuổi rồi, còn cần lập gia đình, ngươi hãy tự mình xử lý mọi việc.”
Gia Cát Lượng thấy sư phụ nói đã “học xong”, bèn vội vàng khẩn cầu, nói: “Sư phụ, đồ đệ càng học càng thấy học thức nông cạn, con nguyện ở lại với ngài học thêm bản lĩnh.”
“Bản lĩnh chân chính cần phải trong khi thực hành mới có thể đạt được. Sách đã học rồi, còn cần xem Trời Đất thiên biến vạn hóa thế nào, tùy thời mà chuyển, tùy cơ ứng biến, mới có thể hữu dụng được! Hãy lấy con tiên hạc kia làm bài học giáo huấn, từ nay chớ lại để tình sắc làm mê đắm nữa, đây là giáo huấn trực tiếp; hết thảy sự việc trên đời đều không được để giả tướng mê hoặc, nhất định phải xử lý cẩn thận, phải thấy rõ bản chất mới được. Đây coi như lời dặn dò lúc chia tay! Hôm nay ta phải đi đây!”
“Sư phụ, ngài định đi đâu?” Gia Cát Lượng kinh ngạc hỏi. “Từ nay con biết đến đâu tìm ngài?”
“Vân du bốn biển, không có định hướng”, lão đạo sĩ đáp.
Nhất thời không biết làm sao, Gia Cát Lượng nước mắt tuôn rơi, nói: “Sư phụ nhất định phải đi, thì xin nhận đồ đệ một bái, gọi là cảm tạ đại ân dưỡng dục.”
Gia Cát Lượng cúi mình làm lễ, lễ xong ngẩng đầu lên thì đã không thấy sư phụ đâu nữa. Từ đó cũng không nghe nói tung tích của lão đạo sĩ nữa.
Lão đạo sĩ trước khi đi đã đưa cho Gia Cát Lượng một vật, chính là bộ y phục Bát Quái mà sau này ông thường xuyên mặc.
Gia Cát Lượng hoài niệm sư phụ, thường mang chiếc áo Bát Quái trên người, coi như vĩnh viễn cõng sư phụ trên lưng. Gia Cát Lượng không quên giáo huấn của sư phụ, nhất là lời dặn dò lúc chia tay, đặc biệt thường mang theo mình chiếc quạt bằng lông vũ, không rời khỏi tay, để tự răn mình phải hành sự thận trọng. Đây chính là lai lịch chiếc quạt lông vũ trên tay Gia Cát Lượng.
Khi đó sau lần gặp đầu tiên với Lưu Bị ở Phàn Thành, Gia Cát Lượng rất thất vọng. Bản thân ông ta ôm đầy hy vọng tới với Lưu Bị nhưng kết quả là phải quay về tay không. Trong lòng ông ta rất buồn phiền, không có lòng nào ở lại, đành phải mau chóng quay về Long Trung.

Một minh họa về "Tam cố thảo lư"
Gia Cát Lượng gặp nhạc phụ của mình là Hoàng Thừa Nhan, kể lại cuộc gặp gỡ của mình ở Phàn Thành, không kìm được phải than một câu rằng: “Một người nếu muốn lập chí, không chỉ là có bản thân là đủ! Không biết trong thiên hạ này có bao nhiêu người bụng đầy kinh luân mà không có cơ hội để thi triển”.
Hoàng Thừa Nhan nhìn Gia Cát Lượng nói rằng: “Vừa mới gặp trở ngại như vậy mà tâm đã nguội, chí đã nản rồi hay sao? Theo cách nhìn của ta, đó chỉ là màn dạo đầu của một vở diễn lớn mà thôi”.
Hoàng Thừa Nhan còn nói: “Phàm dùng thì lập không dùng thì bỏ. Tài học và bản lĩnh của một người chính là chuẩn bị sẵn sàng để thi triển khi có cơ hội. Nhưng cơ hội không tới phải biết cách chịu đựng sự tịch mịch của tài năng”.
Gia Cát Lượng gật đầu nói: “Khổng Tử nói: Thiên hạ có đạo thì xuất, thiên hạ vô đạo thì ẩn. Nếu như sinh ra không gặp thời, không gặp được minh quân, thì đành phải trở về Long Trung làm một nông dân bình thường. Đó cũng không phải là một lựa chọn tồi”.
Hoàng Thừa Nhan uống một ngậm trà rồi nói tiếp: “Chẳng qua, cơ hội cũng không hoàn toàn là phải đợi nó tới. Có lúc cần phải tranh đoạt lấy nó, có thể nghĩ cách để cơ hội tìm đến với mình”.
Gia Cát Lượng nói: “Mong thầy chỉ điểm để con có thể ra khỏi bến mê”.
Hai người đang bàn luận thì gia nhân vào báo có khách tới hỏi. Gia Cát Lượng nói: “Chắc chắn là Thủy Kính tiên sinh, để con tới cửa lớn nghênh tiếp”. Câu nói chưa dứt thì Tư Mã Huy đã vào đến đại đường, vừa đi vừa nói: “Không phải là người ngoài, đừng quá khách khí”.
Hoàng Thừa Nhan đứng dậy chào: “Gặp ông bạn tại Long Trung, phải uống với nhau vài chén mới được. Hôm nay đúng lúc tôi đang muốn nghe ngài cao đàm khoát luận”.
Tư Mã Huy nói với Khổng Minh: “Việc đến Phàn Thành, tôi đoán không được như ý phải không?”
Khổng Minh gật đầu.
Tư Mã Huy nói: “Điều này phải giận ta thiếu suy xét. Đã có mục tiêu rồi, muốn thực hiện được cần phải tất cần phải lên kế hoạch một phen, nếu như không suy nghĩ tùy tiện mà hành động, tất nhiên sẽ dục tốc bất đạt”.
“Kẻ học trò tự thấy học nghiệp chưa tinh, căn bản chưa vững chỉ oán dưa vẫn chưa chín, mương đã đào xong, nước thì chưa đến mà vẫn chưa có cách nào dẫn nước cả”.
“Tốt lắm!Ta thì cho rằng dưa đã chín rồi vì sao vẫn chưa rụng. Chỉ thiếu một trận gió lớn. Gió đến thì dưa sẽ tự rụng”, Hoàng Thừa Nhan nói.
“Cái mương đó đã tu sửa xong, cái gì gọi là đường dẫn nước?”, Tư Mã Huy hỏi.
“Hôm nay chẳng phải nước đã tới rồi sao? Thủy Kính, Thủy Kính, không có nước (thủy) thì làm sao mà thành kính (gương) đây?”.
“Ngài nói chính là tôi đã có kế sách?”
“Không muốn thành người thừa nước đục thả câu”.
“Tục ngữ có câu, một con rể nửa thân mình. Ông thực là lo lắng cho Khổng Minh?”.
Lúc này Hoàng Sửu Nha cười cười bước vào nhà, nói với bố: “Rượu đã hâm xong, bữa ăn cũng đã chuẩn bị, bố cùng thầy Tư Mã đến uống rượu. Mong Thủy Kính tiên sinh thử rượu nói lời quý báu”.
Tư Mã Huy cười lớn nói: “Sửu Nha chuẩn bị rượu là muốn lão phu tiết lộ thiên cơ đây”.
Trong bữa rượu, Tư Mã Huy nói: “Từ Nguyên Trực hôm trước có tìm tôi xin ý kiến. Ông ta nguyên là có dự tính lên Lạc Dương ở phía Bắc với quân Tào. Tôi nói với ông ta rằng, với thân phận hiện tại của ông hiện tại mà muốn đầu quân chẳng qua chỉ có thể làm sĩ tốt, đến khi nào mới được thi triển tài năng? Ngược lại nếu như ông đầu quân cho Lưu Huyền Đức, chống quân Tào khiến cho Tào Mạnh Đức vì ông mà ăn quả đắng nhiều lần từ đó thay đổi cách nhìn đối với ông. Tiếng tăm của ông vang xa, tự nhiên sẽ có được con đường tiến thân rộng rãi”.

Gia Cát Lượng như bừng tỉnh nói: “Ông muốn để Từ Nguyên Trực đi trước để thử dò xem Lưu Huyền Đức có thực là vị chúa có thể phò trợ được hay không?”
Tư Mã Huy không thừa nhận cũng không đáp, chỉ nói: “Nói chung, trước hết cần nghiên cứu xem phẩm cách của Huyền Đức ra sao”.
Gia Cát Lượng nói: “Tôi xem Lưu Huyền Đức vẫn chưa ý thức rằng bên cạnh mình vẫn chưa có ai có thể dựa dẫm được. Ông ta vẫn cho rằng bên cạnh mình vẫn có văn thần võ tướng, nhân tài đầy đủ, hoàn toàn có thể dựa dẫm vào những người bên cạnh ông ta để xưng hùng xưng bá trong thiên hạ, sáng lập nghiệp lớn. Vì thế tôi vẫn muốn tiếp tục lưu lại Long Trung, nghiên cứu binh pháp, hoàn thiện bát trận đồ”.
Tư Mã Huy lại lắc đầu nói: “Trước đây, tôi và Bàng Đức Công bàn tới học nghiệp của ngài, cảm thấy việc cần gấp phải làm lúc này của ngài là phải đi ngắm cảnh sông núi, rong chơi chốn núi non sơn thủy. Đặc biệt 54 châu ở vùng Tây Xuyên, ngài vẫn còn chưa tới, đối với những phong thổ ở nơi đó, ông cũng chỉ thông qua người xưa ghi chép mà biết được một hai. Theo cách nhìn của tôi, ngài nên tự mình đi một chuyến, bàn chuyện quân binh trên sách thì dễ nhưng cũng dễ mắc phải sai lầm. Địa hình và con người thực tế rốt cuộc vẫn khác với những hình vẽ trong sách, sự sai lệch nhầm lẫn cũng không phải ít. Vì thế muốn phải đến tận nơi xem một chuyến mới được”.
Gia Cát Lượng đồng ý làm theo lời của sư phụ Tư Mã Huy bắt đầu có ý đi du ngoạn sơn thủy, xem nơi nào thì có thể đặt quân mai phục, nơi nào dễ phòng thủ mà khó tấn công. Tất cả đều được ghi chép lại, có thể tìm thấy trong bức bản đồ 54 châu của Tây Xuyên. Gia Cát Lượng đã đem tất cả những gì mình quan sát được ghi chép lại trong tấm bản đồ này. Điểm quan trọng là, khi ông ta đi du sơn ngoạn thủy, hỏi thăm bạn bè, cũng là lúc mở rộng kiến văn, hỏi thăm được không ít tin tức từ bên ngoài.
Khi đó, Tư Mã Huy và Hoàng Thừa Nhan tự mình tổ chức việc nghiên cứu tính cách của Lưu Huyền Đức. Họ phân tích rất kỹ về Lưu Bị từ tướng mạo, hành tung, sở thích, đặc điểm cho đến cả những người luôn được ông ta mang theo bên mình, sau đó sắp đặt kế sách. Tất cả những ưu khuyết điểm của bản thân Lưu Bị cũng như thói quen sinh hoạt họ đều như nắm trong lòng bàn tay. Không phải ngạc nhiên khi ngay cả một thư đồng trong sơn trang của Thủy Kính chỉ cần nhìn một lần là có thể nhận ngay ra Lưu Huyền Đức.
Tư Mã Huy ở Thủy Kính sơn trang không để lộ ý định tiến cử Gia Cát Lượng của mình. Ông ta chỉ nói với Lưu Bị rằng: “Ngọa Long, Phượng Sồ, có được một trong hai người ấy có thể an được thiên hạ”. Nhưng mà ông ta lại hoàn toàn không nói rõ với Lưu Bị rằng Ngọa Long chính là Gia Cát Lượng. Nguyên nhân rất đơn giản, Tư Mã Huy biết rằng Lưu Bị đã từng gặp qua Gia Cát Lượng, ông ta sợ ấn tượng của Lưu Bị về lần gặp đầu tiên ấy ảnh hưởng đến sự sắp đặt của mình sau này.
Tư Mã Huy thật xứng đáng là kẻ lắm mưu, sẵn sàng vì đồ đệ của mình mà khó nhọc. Sau khi ông ta tiến cử Ngọa Long với Lưu Bị, ông ta đến gặp Từ Thứ Từ Nguyên Trực sắp đặt việc Từ Thứ đến nơi đồn trú của Lưu Bị để nhận lời làm quân sư.

Lưu Bị ban đầu cho rằng Từ Thứ chính là Ngọa Long mà Tư Mã Huy nói đến, nên mới tôn Từ Thứ làm quân sư cho mình. Vị quân sư này đã đánh cho quân của Tào Tháo nhiều phen khiếp vía. Vì thế Tào Tháo mới lập mưu buộc Từ Thứ phải bỏ Lưu Bị về Hứa Đô. Từ Thứ vẫn biết đó là mưu kế, song đó cũng là mục đích của ông ta do vậy mà vẫn đến Hứa Đô. Trên đường đến Hứa Đô, Từ Thứ mới tiến cử với Lưu Bị Gia Cát Lượng, người “tài năng hơn mình gấp bội” để đáp lại ơn tri ngộ.
Khi đó Lưu Bị còn đương lo nghĩ, Thủy Kính tiên sinh Tư Mã Huy nói rằng người tài trong thiên hạ có hai người là Ngọa Long và Phượng Sồ, có được hai người đó thì có thể bình được thiên hạ, vì sao chưa từng nghe qua Gia Cát Lượng, đây là nhân vật lớn cỡ nào? Khi Từ Thứ nói với Lưu Bị rằng Gia Cát Lượng chính là Ngọa Long, Lưu Bị mới như bừng tỉnh.
Từ Thứ còn cho Lưu Bị biết, Ngọa Long không phải là dễ mà có được, phải tự thân đi mới có thể cầu được. Lưu Bị vì mong có được một nhân tài giúp đỡ cho mình cũng liều mà đi, lần thứ nhất không được thì đi lần thứ hai, lần thứ hai không được thì đi lần thứ ba.
Sự kiên nhẫn này của Lưu Bị đương nhiên vẫn nằm trong dự tính của Tư Mã Huy và Hoàng Thừa Nhan. Khi Lưu Bị không tự thân đến Long Trung, Tư Mã Huy còn lo rằng Lưu Bị vẫn còn lưỡng lự bèn tự thân đến gặp Lưu Bị, ca ngợi Gia Cát Lượng là “có thể giống như Khương Tử Nha giúp nhà Chu hưng thịnh 800 năm, giống như Trương Tử Phòng giúp nhà Hán kéo dài 400 năm”. Chỉ câu nói này của Tư Mã Huy đã khiến cho Lưu Bị phải tự thân lên ngựa cầu Gia Cát Lượng xuống núi.
“Lưu Bị đã quyết định đi mời Gia Cát Lượng”, Tư Mã Huy nhanh chóng chuyển tin tình báo đến cho Hoàng Thừa Nhan.
Hoàng Thừa Nhan cũng ngay lập tức đến Ngọa Long Cương, nói với Khổng Minh: “Cơ hội đã đến, chỉ còn đợi xem con có thể nắm lấy nó hay không mà thôi”.
Gia Cát Lượng hỏi: “Chẳng lẽ là Lưu Huyền Đức đến nhà hỏi chuyện”.
Hoàng Thừa Nhan hỏi: “Làm sao con đoán được?”
“Mấy ngày trước, Từ Nguyên Trực có đến chào con để lên đường”.
“Vậy con định tính toán ra sao?”
“Con đang nghĩ, không ngờ là nhanh như vậy”
“Thầy của con đã thiết kế cho con một vở diễn ‘Ba lần đến lều tranh’ rất hay rồi”.
“Vở diễn này sẽ lấy Ngọa Long Cương của Long Trung làm bối cảnh à?”, Gia Cát Lượng đoán không ra sự trù tính của nhạc phụ, “Nhạc phụ định sắp đặt như thế nào?”.

"Ba lần đến lều tranh"
“Con không nghe bọn trẻ hát kịch hay sao? ‘Lần đầu không bắt được cá, lần thứ hai không bắt được cá, lần thứ ba chỉ tóm được đuôi cá’ Con không ngại thì đầu tiên tìm nơi hẻo lánh không có người quấy nhiễu mà làm việc. Công việc của con sẽ là ‘Làm sao đối đáp ở Long Trung’, tiêu đề phụ sẽ là: ‘Chỉ ra con đường sáng cho Lưu Bị’. Ba lần đầu diễn xuất con sẽ không phải tham gia, tự nhiên sẽ có người diễn hộ cho con”, Hoàng Thừa Nhan nói với con rể kế hoạch của mình.
Cảnh đầu tiên, mời người láng giềng và người làm ruộng trong nhà diễn xuất. Con bình thường chẳng phải là dạy cho họ ngâm thơ làm câu đối hay sao? Hãy để cho họ đợi khách quý tới Long Trung thì ở trong ruộng mà ngâm thơ, khiến cho khách đến thấy rằng, nông phu ở Long Trung cũng có học vấn uyên thâm như vậy, có thể biết được rằng học vấn của Ngọa Long lớn đến như thế nào.
Cảnh thứ hai, hôm qua Thôi Châu Bình và Mạnh Công Uy về nhà thăm người thân tới tìm ta hỏi thăm, ta đã mời hai người giúp đỡ. Họ sẽ ở trước mặt Lưu Huyền Đức bàn một câu chuyện, nhìn thấy những người bạn của Ngọa Long tài năng như thế nào, rồi làm nền cho phụ họa cho tài năng của Ngọa Long.
Cảnh thứ ba, ta cũng sẽ làm một diễn viên phụ, làm phông nền phụ họa cho con. Lưu Huyền Đức đến Long Trung, tất nhiên sẽ không để ông ta về tay không, tuy cũng không gặp được Ngọa Long nhưng vẫn sẽ cảm thấy chuyến đi này cũng không uổng phí, cảm thấy có được một chút thu hoạch cũng sẽ khiến ông ta càng mong gặp Ngọa Long hơn.
Gia Cát Lượng nghe xong cảm thấy khó xử, nói: “Con thấy đâu cần phải làm phiền nhiều người như vậy? Thủy Kính tiên sinh đã giới thiệu con với Lưu Dự Châu rồi. Sau đó Từ Thứ cũng biến một con quạ xấu, ngựa tồi như Gia Cát Lượng thành phượng hoàng kỳ lân trước mặt Lưu Huyền Đức, thực là khiến con hổ thẹn”.
“Việc này con hãy nghe theo sự sắp đặt của ta. Con không phải can thiệp vào, cứ yên tâm làm công việc của mình là được”.
Phải nói là Hoàng Thừa Nhan khổ công sắp đặt màn kịch “Ba lần đến lều tranh” nổi tiếng trong lịch sử mục đích cuối cùng cũng chỉ là làm nền cho sự xuất hiện của Gia Cát Lượng.
“Tam cố thảo lư” (ba lần đến lều tranh) chính là phát minh độc quyền của Hoàng Thừa Nhan. Sau đó vở diễn “ba lần đến lều tranh” hiệu quả ra sao? Sau ba lần đến lều tranh, Gia Cát Lượng đã thể hiện ra sao, tiểu thuyết gia La Quán Trung đã viết rất hay trong “Tam Quốc diễn nghĩa” rồi, ở đây sẽ nói lại thêm nữa.
Hy Văn (Vietimes) dịch từ Những bí ẩn cuộc đời Khổng Minh, tác giả Hàn Xuân Minh, nhà xuất bản Tân Hoa, 2007
Chỉ huy và tướng lĩnh là trụ cột của đất nước, là cốt cán của quân đội, có quan hệ đến sự thành bại của sự nghiệp, sự thắng bại của chiến tranh. Cho nên chỉ huy phải có những phẩm chất tốt. Một chỉ huy có phẩm chất tốt, không những có đạo đức khác thường, mà còn phải có trí tuệ hơn người. Gia Cát Lượng trong "Tướng Uyển-Thiên Tướng" đã vạch ra, chỉ huy ưu tú cần phải được rèn luyện để có được "năm điều giỏi, bốn điều mong muốn".
Địch đánh đến, phải tích cực phòng ngự; thời cơ chín muồi, phải tấn công. Phòng ngự thế nào, tấn công thế nào, phải xây dựng trên sự phán đoán, dự đoán chính xác, kịp thời về tình hình địch.
Khi nào tấn công, khi nào rút lui, người tướng ưu tú đều biết chọn lựa cho thích hợp.
Khi tấn công không được làm cho chúng có cảm giác mất miếng mồi ngon trước miệng; khi rút lui, có thể đề phòng trở thành tấm bia trước mũi súng địch, phải giữ gìn sinh lực của quân đội. Tài lực vật lực của nhà nước có thể đáp ứng mọi yêu cầu của chiến tranh hay không?
Nên đánh lâu dài hay nên đánh nhanh?
Hoặc căn bản không thể làm chiến tranh được, những điều đó, người tướng ưu tú đều phải có tính toán chính xác. Chiến tranh muốn giành thắng lợi, cần phải thuận trời, theo thời gian và con người. Cho nên người tướng ưu tú cần phải biết tình thế chung của thiên hạ trong quá trình chiến tranh, thời cơ, hoàn cảnh cụ thể, lòng người ngả về đâu, để có thể lợi dụng có hiệu quả.
Thiên thời không bằng địa lợi, thắng bại của chiến tranh thường quyết định ở chỗ có thể dựa vào địa thế có lợi mà vận dụng chiến thuật tấn công, rút lui, đánh hay giữ.
Tướng lĩnh ưu tú phải nắm chắc địa hình, khu vực tác chiến như lòng bàn tay. Quân đội lấy mưu kế bất ngờ làm mưu, lấy trí tuệ cao làm chủ. Chỉ huy ưu tú khi tác chiến phải giống như tay cao cờ, dùng những ngón hiểm để giành thắng lợi. Người chỉ huy ưu tú khi bố trí quân, vạch mưu kế phải chặt chẽ chu đáo, cẩn thận và kín đáo không lọt ra ngoài, không gì chống cự được thì mới đánh chắc, nắm chắc, đánh trăm trận không thua trận nào.
Không nóng vội, không kích động, bình tĩnh theo sự biến đổi của hình thái, "dĩ bất biến ứng vạn biến"; sự việc nghìn đầu vạn mối, quần chúng thì trăm mồm nghìn ý, nhưng người chỉ huy vẫn phải giữ cho đầu óc bình tĩnh, tỉnh táo.
Tâm trí trước sau phải như một, khi mục tiêu chính xác đã được xác định, mưu kế kỳ diệu đã được vận dụng, thì phải kiên quyết thực hiện không dao động. Nghĩ một đằng, làm một nẻo, sáng nắng chiều mưa, nửa đường bỏ dở thì không hoàn thành đại sự được.
Lâu nay, Gia Cát Lượng vẫn được người dân khắp khu vực Đông Á nhắc tới như một nhà chính trị, quân sự lỗi lạc nhưng đồng thời cũng là một thầy phong thủy, tướng số có khả năng hô phong hoán vũ, nhìn sao đoán mệnh, dự báo tương lai.Có lẽ chính vì vậy mà ngay cả với cái chết của vị quân sư họ Gia Cát này người ta cũng truyền tai nhau đủ chuyện phong thủy thần bí…
“Xác giả” đánh lui quân Tư Mã Ý
Năm Kiến Hưng thứ 12 nhà Thục Hán (tức năm 234), Gia Cát Lương dẫn quân Bắc phạt, đóng quân ở Ngũ Trượng Nguyên. Đó là thời điểm vào giữa mùa hạ, trời nóng bức, chiến cuộc lại không có nhiều tiến triển khiến Gia Cát Lượng rất lo lắng, ưu phiền, cứ mở miệng nói là cáu gắt, một ngày chỉ ăn được chút cơm. Chính vì vậy mà chẳng bao lâu sau, cơ thể suy kiệt nhanh chóng cuối cùng thành bệnh, nằm liệt giường trong doanh trại. Đến tháng 8, vị quân sự lỗi lạc của nhà Thục Hán nôn ra máu mà chết. Năm đó, Gia Cát Lượng mới chỉ 54 tuổi.
Gia Cát Lượng xuống núi theo Lưu Bị năm 27 tuổi, 14 năm sau thì làm tới chức thừa tướng nước Thục, 27 năm sau thì chết vì lo lắng phiền muộn. Người ta nói rằng, tất cả những sự kiện trọng đại xảy ra trong đời Gia Cát Lượng đều liên quan tới con số 7. Đây hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Con số 7 là con số định mệnh đối với Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng xuống núi theo Lưu Bị năm 27 tuổi, 14 năm sau thì làm tới chức thừa tướng nước Thục, 27 năm sau thì chết vì lo lắng phiền muộn. Người ta nói rằng, tất cả những sự kiện trọng đại xảy ra trong đời Gia Cát Lượng đều liên quan tới con số 7. Đây hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên. Con số 7 là con số định mệnh đối với Gia Cát Lượng.
Con trai Lưu Bị là Lưu Thiền nghe tin dữ từ tiền tuyến báo về kinh hoảng vô cùng. Vì lẽ, xưa nay, mọi việc trong triều đình nhà Thục đều trông vào một tay Gia Cát Lượng, nay Lượng vì chuyện Bắc phạt mà chết, ai sẽ là người thay Lưu Thiền lo lắng chuyện quốc gia đại sự. Vì vậy, người ta nói rằng, Lưu Thiền sau khi nghe tin là khóc lóc chạy tới nơi chôn cất của Gia Cát Lượng, tự mình chủ trì nghi lễ chôn cất còn phong cho Gia Cát Lượng là “Trung Vũ hầu”. Người đời sau vẫn gọi Gia Cát Lượng là “Gia Cát Vũ hầu” cũng là từ tước hàm này mà có.
Sách chép, trước khi chết, Gia Cát Lượng biết rằng sau khi mình nằm xuống, quân Thục không thể là đối thủ của quân đội Ngụy dưới sự chỉ huy của Tư Mã Ý. Vì vậy, mặc dù trong tình trạng bệnh tình nguy kịch vẫn cố gắng họp mặt các tướng lĩnh dưới quyền để bố trí thật chu đáo cho việc rút quân. Các tướng trung thành của Gia Cát Lượng là Dương Nghĩa, Khương Duy theo sự sắp xếp của Gia Cát Lượng, sau khi Lượng chết không phát tang ngay mà chỉnh đốn binh mã, rút quân về Hán Trung thật thần tốc nhưng phải trật tự, không để quân Tư Mã Ý phát hiện.
Tư Mã Ý biết chuyện quân Thục đang rút chạy, lập tức xua quân đuổi theo, quyết một phen tiêu diệt quân của Gia Cát Lượng. Dương Nghĩa ra lệnh cho binh lính rải đinh sắt trên đường rút quân để cản trở quân địch. Tư Mã Ý không phải tay vừa, ra lệnh cho hơn 2000 binh sỹ đi những đôi giày có đế làm bằng gỗ mềm chạy trước đoàn quân khiến đinh sắt do quân Thục rải trên đường găm hết vào đế giày.
Quân đội Ngụy cứ theo đoàn quân giày gỗ này thuận lợi truy đuổi quân Thục. Tuy nhiên, khi quân Ngụy đuổi tới gần, quân Thục đột nhiên dựng cờ, gõ trống giống như chuẩn bị phản kích quân Ngụy. Quân Tư Mã Ý thấy vậy không dám truy đuổi nữa. Quân Thục nhờ vậy mà an toàn rút về Hán Trung.
Vì sao một người thông minh như Tư Mã Ý lại không dám truy đuổi quân Thục? Nguyên nhân là vì, trước khi chết, dự liệu rằng khi quân Thục rút lui, Tư Mã Ý tất sẽ đuổi theo vì vậy Gia Cát Lượng đã cho người đẽo một bức tượng của mình rồi đặt lên xe. Đến khi quân của Tư Mã Ý đuổi theo đến gần thì đẩy xe có bức tượng của mình lên phía trước. Tư Mã Ý vốn nghe phong thanh Gia Cát Lượng bị bệnh mà chết, vì thế quân Thục mới rút quân.
Nay khi đuổi sát tới nơi lại thấy Gia Cát Lượng vẫn điềm nhiên ngồi trước xe ra trước ba quân thì sợ rằng cả cái chết lẫn việc rút quân chỉ là kế sách của Gia Cát Lượng nên không dám manh động. Tư Mã Ý quá thông minh do vậy cũng quá sức thận trọng vì thế đánh mất cơ hội tiêu diệt quân Thục. Người đời sau gọi sự kiện này là “xác giả” Gia Cát Lượng đánh lui Tư Mã Ý.
Nay khi đuổi sát tới nơi lại thấy Gia Cát Lượng vẫn điềm nhiên ngồi trước xe ra trước ba quân thì sợ rằng cả cái chết lẫn việc rút quân chỉ là kế sách của Gia Cát Lượng nên không dám manh động. Tư Mã Ý quá thông minh do vậy cũng quá sức thận trọng vì thế đánh mất cơ hội tiêu diệt quân Thục. Người đời sau gọi sự kiện này là “xác giả” Gia Cát Lượng đánh lui Tư Mã Ý.
Quái chiêu “điểm huyệt” định phong thủyLà một người trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, vì vậy, Gia Cát Lượng đương nhiên rất chỉn chu với việc chọn nơi chôn cất cho chính mình. Theo di nguyện của Gia Cát Lượng, sau khi chết nơi đặt mộ của mình sẽ là núi Định Quân.Núi Định Quân nay nằm ở phía Nam huyện Miễn, thuộc tỉnh Thiểm Tây. Nó là một nhánh đâm theo hướng Tây Bắc của dãy Hệ Mỹ Thương. Vì trên đỉnh núi rất bằng phẳng, có thể đóng được cả vạn quân nên mới có tên là núi Định Quân. Một truyền thuyết khác nói rằng, khi Gia Cát Lượng dẫn quân Bắc phạt đã dùng ngọn núi này làm nơi tập Bát trận độ, luyện tập binh lính nên mới có tên là núi Định Quân.
Vì sao Gia Cát Lượng lại chọn núi Định Quân mà không chọn chôn cất ngay tại nơi chốn hoặc mang hẳn về kinh đô nước Thục? Người ta đã đưa ra nhiều giải thích khác nhau. Người nói Gia Cát Lượng chọn núi Định Quân là vì quan niệm khi sống thì quản lý nước Thục, khi chết thì bảo vệ nước Thục. Một thuyết khác lai nói rằng, do việc Bắc phạt thất bại nên Gia Cát Lượng không muốn đưa xác mình về chôn tại kinh đô, sợ bị Lưu Thiền trả thù. Tuy nhiên, có lẽ nguyên nhân thuyết phục nhất vẫn là Gia Cát Lượng đã tính toán rất kỹ về phong thủy khi lựa chọn ngọn núi Định Quân này.
Vì sao Gia Cát Lượng lại chọn núi Định Quân mà không chọn chôn cất ngay tại nơi chốn hoặc mang hẳn về kinh đô nước Thục? Người ta đã đưa ra nhiều giải thích khác nhau. Người nói Gia Cát Lượng chọn núi Định Quân là vì quan niệm khi sống thì quản lý nước Thục, khi chết thì bảo vệ nước Thục. Một thuyết khác lai nói rằng, do việc Bắc phạt thất bại nên Gia Cát Lượng không muốn đưa xác mình về chôn tại kinh đô, sợ bị Lưu Thiền trả thù. Tuy nhiên, có lẽ nguyên nhân thuyết phục nhất vẫn là Gia Cát Lượng đã tính toán rất kỹ về phong thủy khi lựa chọn ngọn núi Định Quân này.
Địa hình núi Định Quân rất phức tạp, các sườn núi uốn lượn, nhấp nhô được coi là một nơi cực tốt về mặt phong thủy. Tuy nhiên, ngọn núi Định Quân thì quá lớn, vậy nếu như chỉ nói rằng chôn cất ở núi Định Quân thì các tướng lĩnh biết chôn cất Gia Cát Lượng ở đâu? Người ta nói rằng, chuyện này cũng đã được Gia Cát Lượng tính toán rất kỹ.
Theo ghi chép, trước khi chết, nói về việc lo hậu sự của mình, Gia Cát Lượng nói với các tướng sỹ rằng, sau khi mình chết thì đem bỏ xác vào quan tài, lấy dây thừng buộc lại rồi cho quân sỹ khiêng theo đoàn quân rút về Hán Trung. Dây thừng đứt ở đâu thì lấy nơi đó làm mộ.
Truyền thuyết kể rằng, quân sỹ theo lời dặn của Gia Cát Lượng, buộc dây thừng vào quan tài rồi khiêng theo đoàn quân rút lui về phía Hán Trung. Cứ khiêng đi như vậy một thời gian rất lâu nhưng dây vẫn không đứt. Tuy nhiên, khi tới núi Định Quân thì đột nhiên sợi dây thừng rất chắc chắn bỗng dưng đứt bật ra, quan tài rơi xuống đất. Quân sỹ vội đặt quan tài xuống rồi tìm xẻng để đào huyệt hạ quan tài xuống. Nhưng khi binh lính vừa tản ra đất tại nơi đặt quan tại bỗng sụp xuống, vừa khít lấp trọn quan tài của Gia Cát Lượng.
Truyền thuyết kể rằng, quân sỹ theo lời dặn của Gia Cát Lượng, buộc dây thừng vào quan tài rồi khiêng theo đoàn quân rút lui về phía Hán Trung. Cứ khiêng đi như vậy một thời gian rất lâu nhưng dây vẫn không đứt. Tuy nhiên, khi tới núi Định Quân thì đột nhiên sợi dây thừng rất chắc chắn bỗng dưng đứt bật ra, quan tài rơi xuống đất. Quân sỹ vội đặt quan tài xuống rồi tìm xẻng để đào huyệt hạ quan tài xuống. Nhưng khi binh lính vừa tản ra đất tại nơi đặt quan tại bỗng sụp xuống, vừa khít lấp trọn quan tài của Gia Cát Lượng.
Thời kỳ Tam Quốc là thời kỳ “mộ tặc” cực kỳ lộng hành. Vì vậy, ngoài việc chọn phong thủy cho ngôi mộ, việc đầu tiên cần nghiên cứu đối với các nhà phong thủy chính là làm cách nào để chống lại bọn mộ tặc này. Tào Tháo vốn là một chuyên gia trộm mộ, vì vậy cũng trở thành một người cực kỳ tài năng trong việc chống lại mộ tặc.
Nghi án về 72 ngôi mộ của Tào Tháo cho tới tận ngày nay vẫn chưa có lời giải và người ta vẫn chưa thể nào tìm thấy ngôi mộ thật của nhà chính trị lừng danh thời Tam Quốc này.
Về mặt phong thủy, Gia Cát Lượng có lẽ không thua gì Tào Tháo vì vậy, việc chống mộ tặc của Gia Cát Lượng cũng đặc sắc không kém.
Về mặt phong thủy, Gia Cát Lượng có lẽ không thua gì Tào Tháo vì vậy, việc chống mộ tặc của Gia Cát Lượng cũng đặc sắc không kém.
Gia Cát Lượng khi chọn mộ cũng đã nghĩ đến việc sẽ bị Tư Mã Ý hoặc những người đời sau đào và cướp mộ vì vậy đã yêu cầu tướng lĩnh dưới quyền không chôn theo các vật tùy táng, mộ huyệt cũng không cần đào lớn, chỉ vừa đủ để đặt quan tài là được. Khu vực đặt mộ cũng không cần xây kín, cũng không trồng cây đánh dấu hay làm bất cứ thứ gì có thể bị phát hiện.
Tuy nhiên, những người đời sau để tưởng nhớ công đức của Gia Cát Vũ Hầu đã quyết định xây dựng khu mộ cho ông, lại còn trồng cây để ghi nhớ vị trí đặt mộ. Tuy nhiên, khi quyết định làm điều này, họ cũng tính đến việc giúp ngôi mộ chống lại bọn mộ tặc.
Vì vậy họ đã xây dựng rất nhiều ngôi mộ giả xung quanh ngôi mộ thật. Ngôi mộ mà ngay nay người ta vẫn gọi là “Mộ thật của Gia Cát Vũ Hầu” thực tế không phải là mộ thật. Nhiều người cho rằng, ngôi mộ chỉ vẻn vẹn dòng chữ “Mộ Vũ Hầu” mới là mộ thật. Vì vậy mà người Trung Quốc đến nay vẫn còn lưu truyền câu tục ngữ: “Mộ thật thì không thật mà mộ giả lại không giả”.
Ngôi mộ có tên là “Mộ Vũ Hầu” được đặt ở góc Tây Bắc của núi Định Quân, diện tích lên tới hơn 300 mẫu. Trên thực tế, nhiều chuyên gia lại cho rằng, ngay cả ngôi mộ có tên “Mộ
Vũ Hầu” này cũng không phải là thực.
Ngôi mộ này được coi là ngôi thật của Gia Cát Lượng chỉ mới bắt đầu từ năm 1799, do Đô đốc tỉnh Thiểm Tây là Tùng Quân khẳng định dựa trên những truyền thuyết lưu truyền trong dân địa phương thời đó. Vì vậy, có thể nói rằng cũng giống như Tào Tháo, cho tới nay người ta vẫn chưa thể xác định được mộ thật của Gia Cát Lượng nằm ở đâu.
Chuyện trong phim:
Ngôi mộ có tên là “Mộ Vũ Hầu” được đặt ở góc Tây Bắc của núi Định Quân, diện tích lên tới hơn 300 mẫu. Trên thực tế, nhiều chuyên gia lại cho rằng, ngay cả ngôi mộ có tên “Mộ
Vũ Hầu” này cũng không phải là thực.
Ngôi mộ này được coi là ngôi thật của Gia Cát Lượng chỉ mới bắt đầu từ năm 1799, do Đô đốc tỉnh Thiểm Tây là Tùng Quân khẳng định dựa trên những truyền thuyết lưu truyền trong dân địa phương thời đó. Vì vậy, có thể nói rằng cũng giống như Tào Tháo, cho tới nay người ta vẫn chưa thể xác định được mộ thật của Gia Cát Lượng nằm ở đâu.
Chuyện trong phim:
Kết thúc phần I, quân Đông Ngô vui mừng trong không khí thắng trận, quyết định hạ trại bên bờ nam sông Trường Giang ở khu vực có những vách đá dựng đứng. Quân của Chu Du ít hơn nhiều, nhưng lại chiếm ưu thế về thủy chiến, Tào Tháo không thể qua sông nên đóng trại ở bờ bắc để huấn luyện quân. Ông dùng xích sắt nối thuyền lớn lại theo lối của kị binh Liên Hoàn Mã, gọi đó là "Liên Hoàn Chiến Thuyền". Trong khi quân lính chuẩn bị cho trận giao tranh sắp tới, Tào Tháo cao ngạo cho rằng thế trận liên hoàn chiến thuyền của mình là bất khả chiến bại, ung dung ngồi uống rượu làm thơ cùng chư tướng, lại còn tổ chức trò chơi đá cầu.

Công chúa Tôn Thượng Hương, em gái của chủ công Tôn Quyền, cải dạng nam nhi trà trộn vào hàng ngũ quân Tào để do thám. Cô làm quen với chàng trai Tôn Thư Tài và được anh chọn vào chơi trong đội cầu của mình, quả là cơ hội tốt thám thính tình hình địch quân.
Tào Tháo lúc này lâm vào thế bất lợi khi quân Ngụy vốn không quen với thổ nhưỡng miền Nam, liên tiếp bị bệnh dịch nằm la liệt. Là tay gian hùng xảo quyệt, Tào Tháo tàn nhẫn ra lệnh thả xác binh lính tử nạn vì bệnh dịch xuống lòng sông Trường Giang để đầu độc nguồn nước. Và mặc dù đã nhanh chóng ứng phó, nhưng liên quân Ngô – Thục cũng bị ảnh hưởng nặng nề, đại quân xuống tinh thần không nhỏ. Trước tình hình ấy, Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi và Triệu Vân đã rời bỏ đại quân Đông Ngô trở về Thục.
Trước cảnh thiếu hụt quân cụ, Gia Cát Lượng quyết định bày ra một kế làm tiêu hao quân Tào. Đêm đến, ông cho quân tiến sát thủy trại Tào Tháo đánh trống, reo hò ầm ĩ. Đô đốc quân Tào tưởng bị phục kích nên vội hạ lệnh quân sĩ bắn tên loạn xạ về phía thuyền địch. Đến khi trời sáng, đô đốc quân Ngụy mới biết đã trúng kế “thuyền cỏ mượn tên” của Gia Cát Lượng. Hai mươi chiếc thuyền trở về cắm đầy tên của quân Tào, tính ra hơn 10 vạn. Chu Du còn viết giả một bức mật thư tố cáo hai vị đô đốc thông đồng cho Đông Ngô “mượn tên”. Tào Tháo lập tức ra lệnh xử chém hai tướng. Trông thấy tướng quân bị xử đại hình, quân Tào hoảng sợ bỏ chạy tán loạn, vô số kẻ bị giết vì tội thông đồng với giặc. Cuối cùng, Tào Thào quyết định tổ chức tổng tấn công. Ông viết bài hịch vực dậy tinh thần chiến đấu của tướng sĩ.
Về phía liên quân Ngô – Thục, các vị chủ soái quyết định dùng trận hỏa công phá thế liên hoàn của chiến thuyền quân Tào. Trên lí thuyết thì sách lược này rất hữu dụng vì chiến thuyền của quân Tào được kết dính lại bằng xích sắt, nhưng thực tế là hướng gió lúc ấy lại thổi từ bắc xuống nam về phía chiến thuyền Đông Ngô. Lúc này, Tôn Thượng Hương trở về mang theo tấm bản đồ chi tiết cách bố trại của quân Tào. Ngô – Thục căn cứ vào bản đồ ấy, quyết định mở cuộc tấn công.
Dù Chu Du hết mực can ngăn, Tiểu Kiều quyết định đến gặp Tào Tháo để thuyết phục ông ngưng chiến, hay ít nhất là tạm dừng trong một thời gian. Từ bấy lâu nay, Tào Tháo đã bị sắc đẹp của Tiểu Kiều mê hoặc. (Có nhiều đồn đại cho rằng mục đích Tào tấn công Đông Ngô chính là để chiếm lấy Tiểu Kiều, như câu thơ chép rằng: “Gió Đông ví phụ Châu Lang, Một đền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều” là vì lẽ ấy).Gia Cát Lượng quay trở lại Đông Ngô báo tin rằng ông xem thiên văn biết được tiết Đông Chí sẽ đến vào ngày hôm sau, và hướng gió sẽ thay đổi. Gia Cát Lượng thuyết phục Chu Du quay trở lại với chiến thuật hỏa công. Quân Đông Ngô quyết định mở cuộc phản công, tập trung chiến thuyền dọc bên vách đá chờ thời cơ gió đổi hướng. Trong lúc ấy, Tiểu Kiều vẫn dùng mỹ nhân kế làm xao nhãng Tào Tháo.
Quả nhiên, hướng gió thay đổi, quân Đông Ngô quyết định đồng loạt tấn công. Chiến thuyền Đông Ngô đốt lửa lao thẳng vào thế trận liên hoàn chiến thuyền của quân Tào. Không kịp trở tay, hai ngàn chiến thuyền của Tào Tháo bị thiêu rụi. Lửa cháy đỏ cả hai bên bờ sông. Trong khi đó, bộ binh Đông ngô cũng tổng tấn công phá đại trại quân Tào.
Đông Ngô bất ngờ tập kích, khiến quân Tào không kịp phòng bị. Nhưng đội kỵ binh thiện chiến của Tào Tháo nhanh chóng lật ngược tình thế, đẩy lùi quân Ngô về phía Trường Giang. Đúng lúc ấy, Lưu Bị dẫn quân đến hợp sức cùng quân Ngô đẩy Tào Tháo vào thế không kịp chống đỡ. Với sự trợ giúp của Triệu Vân và Tôn Quyền, Chu Du tìm được lối vào đại trại, kịp cứu Tiểu Kiều đi trước khi doanh trại cháy rụi. Tào Tháo đổi áo mão, cắt râu tháo chạy. Liên quân Ngô – Thục ca khúc khải hoàn.
Thay vì đuổi cùng giết tận, Gia Cát Lượng cho rằng nên để Tào Tháo thất trận nhục nhã trở về nhận tội trước Hán Hiến Đế. Gia Cát Lượng từ biệt Chu Du và Tiểu Kiều trở về Thục. Tào Tháo thất thểu dẫn tàn quân về Bắc Ngụy…
Chuyện bên lề của Đại chiến Xích Bích
Đạo diễn nổi tiếng Ngô Vũ Sâm đã ấp ủ kịch bản Đại chiến Xích Bích từ hơn 20 năm qua, nhưng vì chưa tìm đủ kinh phí và đội ngũ thực hiện kỹ xảo có thể tái hiện trận chiến quy mô cực lớn này, nên dự án của ông vẫn còn nằm mãi trên giấy. Thế rồi vào mùa hè năm 2004, nhân dịp nhà sản xuất Trương Gia Trấn đến Bắc Kinh lần đầu tiên, Ngô Vũ Sâm đã thuyết phục ông đầu tư sản xuất thực hiện dự án điện ảnh hấp dẫn này.
Đạo diễn Ngô Vũ Sâm khi dựng phim đã quyết định bám sát theo các cứ liệu lịch sử, nhưng vẫn bảo đảm giữ lại các tình tiết cao trào trong tiểu thuyết, để làm hài lòng lượng độc giả đông đảo của tác phẩm nổi tiếng này. “Thuyền cỏ mượn tên” chính là một chi tiết lấy từ tiểu thuyết, cách làm này đảm bảo sự quân bình giữa chính sử và dã sử trong phim.
Ngoài ra đây là bộ phim không phải chỉ dành cho khán giả châu Á, mà mục tiêu của nó là hướng đến khán giả toàn cầu. Làm phim về Tam Quốc Chí, nhất định phải đưa vào những nhân vật như Triệu Vân, Trương Phi, đặc biệt là Quan Vũ, vị danh tướng được nhiều nước châu Á tôn xưng như hiển thánh. Nhưng khán giả phương Tây thì hơi “bối rối” khi phải làm quen với quá nhiều nhân vật có những cái tên na ná nhau như vậy. Một vị lãnh đạo hãng phim Hollywood từng đề nghị biên kịch tổng hợp một số tướng quân của liên minh Ngô – Thục lại thành một người cho dễ nắm bắt. Là một người trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, Gia Cát Lượng rất chỉn chu với việc chọn nơi chôn cất cho chính mình. Theo di nguyện của Gia Cát Lượng, sau khi chết nơi đặt mộ của mình sẽ là núi Định Quân. Núi Định Quân nay nằm ở phía nam huyện Miễn, thuộc tỉnh Thiểm Tây. Nó là một nhánh đâm theo hướng Tây Bắc của dãy Hệ Mỹ Thương. Vì trên đỉnh núi rất bằng phẳng, có thể đóng được cả vạn quân nên mới có tên là núi Định Quân.
Một truyền thuyết khác nói rằng, khi Gia Cát Lượng dẫn quân Bắc phạt đã dùng ngọn núi này làm nơi tập Bát trận độ, luyện tập binh lính nên mới có tên là núi Định Quân. Vì sao Gia Cát Lượng lại chọn núi Định Quân mà không chọn chôn cất ngay tại nơi ông mất hoặc mang hẳn về kinh đô nước Thục? Người ta đã đưa ra nhiều giải thích khác nhau.
Người nói Gia Cát Lượng chọn núi Định Quân là vì quan niệm khi sống thì quản lý nước Thục, khi chết thì bảo vệ nước Thục. Một thuyết khác lại nói rằng, do việc Bắc phạt thất bại nên Gia Cát Lượng không muốn đưa xác mình về chôn tại kinh đô, sợ bị Lưu Thiền trả thù. Tuy nhiên, có lẽ nguyên nhân thuyết phục nhất vẫn là Gia Cát Lượng đã tính toán rất kỹ về phong thủy khi lựa chọn ngọn núi Định Quân này.
Địa hình núi Định Quân phức tạp, các sườn núi uốn lượn, nhấp nhô được coi là một nơi cực tốt về mặt phong thủy. Tuy nhiên, ngọn núi Định Quân thì quá lớn, vậy nếu như chỉ nói rằng chôn cất ở núi Định Quân thì các tướng lĩnh biết chôn cất Gia Cát Lượng ở đâu? Người ta nói rằng, chuyện này cũng đã được Gia Cát Lượng tính toán rất kỹ. Theo ghi chép, trước khi chết, về việc hậu sự của mình, Gia Cát Lượng nói với các tướng sỹ rằng, sau khi mình chết thì bỏ xác vào quan tài, lấy dây thừng buộc lại rồi cho quân sỹ khiêng theo đoàn quân rút về Hán Trung. Dây thừng đứt ở đâu thì lấy nơi đó làm mộ.
Quân sỹ theo lời dặn, buộc dây thừng vào quan tài rồi khiêng đi. Cứ khiêng đi như vậy một thời gian rất lâu nhưng dây vẫn không đứt. Tuy nhiên, khi tới núi Định Quân thì đột nhiên sợi dây thừng rất chắc chắn bỗng dưng đứt bật ra, quan tài rơi xuống đất. Quân sỹ vội tìm xẻng để đào huyệt hạ quan tài xuống. Nhưng khi binh lính vừa tản ra thì đất tại nơi đặt quan tại bỗng sụp xuống, vừa khít lấp trọn quan tài của Gia Cát Lượng.
Thời Tam Quốc là thời kỳ "mộ tặc" lộng hành. Vì vậy, ngoài việc chọn phong thủy cho ngôi mộ, việc đầu tiên cần nghiên cứu đối với các nhà phong thủy chính là làm cách nào để chống lại bọn mộ tặc này. Tào Tháo vốn là một chuyên gia trộm mộ, vì vậy cũng trở thành một người tài năng trong việc chống lại mộ tặc. Nghi án về 72 ngôi mộ của Tào Tháo cho tới tận ngày nay vẫn chưa có lời giải và người ta vẫn chưa thể nào tìm thấy ngôi mộ thật của nhà chính trị lừng danh thời Tam Quốc này.
Về mặt phong thủy, Gia Cát Lượng có lẽ không thua gì Tào Tháo, vì vậy, việc chống mộ tặc của Gia Cát Lượng cũng đặc sắc không kém. Gia Cát Lượng khi chọn mộ cũng đã nghĩ đến việc sẽ bị Tư Mã Ý hoặc những người đời sau đào và cướp mộ vì vậy đã yêu cầu tướng lĩnh dưới quyền không chôn theo các vật tùy táng, mộ huyệt cũng không cần đào lớn, chỉ vừa đủ để đặt quan tài là được. Khu vực đặt mộ cũng không cần xây kín, cũng không trồng cây đánh dấu hay làm bất cứ thứ gì có thể bị phát hiện.
Tuy nhiên, những người đời sau để tưởng nhớ công đức của Gia Cát Vũ Hầu đã quyết định xây dựng khu mộ cho ông, lại còn trồng cây để ghi nhớ vị trí đặt mộ. Tuy nhiên, khi quyết định làm điều này, họ cũng tính đến việc giúp ngôi mộ chống lại mộ tặc. Vì vậy họ đã xây dựng rất nhiều ngôi mộ giả xung quanh ngôi mộ thật. Ngôi mộ mà ngay nay người ta vẫn gọi là "Mộ thật của Gia Cát Vũ Hầu" thực tế không phải là mộ thật. Nhiều người cho rằng, ngôi mộ chỉ vẻn vẹn dòng chữ "Mộ Vũ Hầu" mới là mộ thật. Vì vậy mà người Trung Quốc đến nay vẫn còn lưu truyền câu tục ngữ: "Mộ thật thì không thật mà mộ giả lại không giả". Ngôi mộ có tên là "Mộ Vũ Hầu" được đặt ở góc Tây Bắc của núi Định Quân, diện tích lên tới hơn 300 mẫu.
Bát Trận Đồ Truyền Kỳ: Nguyên tác: Đỗ Phủ:
五言絕句
杜甫
八陣圖
功蓋三分國,
名成八陣圖。
江流石不轉,
遺恨失吞吳。
Bát trận đồ
Công cái tam phân quốc
Danh thành Bát trận đồ
Giang lưu thạch bất chuyển
Di hận thất thôn Ngô
Dịch Nghĩa
Công lớn trùm khắp, nước chia làm ba
Nổi danh trận đồ Bát quái
Nước sông cứ chảy đá không lay chuyển
Để lại hận đă thất kế thôn tính Ngô
--Bản dịch của Trần Trọng San--
Bát Trận Đồ
Vơ công trùm lợp thời Tam Quốc
Danh tiếng làm nên Bát trận đồ
Đá vẫn nằm trơ dòng nước chảy
Hận còn để mãi lỡ thôn Ngô
--Bản dịch của Trần Trọng Kim--
Tam phân quốc công cao tột bực
Bát trận đồ danh nức muôn đời
Nước trôi đá vẫn không dời
Ngậm ngùi nỗi chẳng nghe lời đánh Ngô
--Bản dịch của Nguyễn phước Hậu--
-Bài 1:
Công to định trước nước chia ba,
Danh Bát trận đồ tiếng vọng xa.
Đá cứng nằm im, dù nước chảy,
Hận Ngô chưa diệt, trả thù nhà.
-Bài 2:
Công to chia ba trước
Vang danh Bát trận đồ.
Đá chìm mặc dòng nước
Còn hận chửa diệt Ngô.
--Bản dịch của Nguyễn Minh--
Công đầu ba nước phân tranh
Trận đồ Bát Quái danh thành từ đây
Nước dâng đá vẫn phây phây
Nuốt Ngô không được hận này khôn nguôi.
--Bản dịch của SongNguyễn HànTú--
Ngày nào Tam Quốc phân tranh
Trận Đồ Bát Quái lừng danh khắp trời
Nước dâng đá chẳng chuyển rời
Mãi mang hận đã lỡ thời chiếm Ngô
--Bản dịch của Phan Kế Bính--
Công trùm thế tam phân,
Tiếng thơm đồ bát trận.
Nước chảy đá trơ trơ,
Đánh Ngô còn để giận
--Bản dịch của Trương Văn Tú--
Công cái thế định nên Tam quốc,
Bát trận đồ, Cát Lượng lừng danh.
Sông nước đá, còn trơ trơ đó,
Lưu chúa hận, thất chiếm Đông Ngô.
--Bản dịch của Anh Nguyên--
Kế hoạch tám trận
Công trùm đất nước chia ba,
Nhờ ‘‘Mưu tám trận’’ ấy mà nổi danh.
Sông trôi, đá vững như thành,
Đánh Ngô, bỏ lỡ, hận đành nghìn thu...
-Bản dịch của Lê Nguyễn Lưu--
Công lớn trùm ba nước,
Lừng danh “bát trận đồ”.
Sông trôi, chồng đá vững,
Còn hận chửa bình Ngô !
--Bản dịch của Chi Điền--
Chiến công lừng lẫy trên ba nước,
Lịch sử ghi danh Bát-Trận-Đồ.
Thạch trận y nguyên giòng nước chảy,
Nghìn thu ghi hận đánh Đông-Ngô.
--Bản dịch của Phan Ngọc--
Công trùm đời Tam Quốc,
Nổi tiếng Bát trận đồ.
Sông chảy, đá chẳng chuyển,
Tiếc để đánh Đông Ngô.
--Bản dịch của Phạm Doanh--
Công lớn thời chia ba,
Danh vang bát trận đồ.
Sông trôi đá vẫn đứng,
Còn tiếc chưa thắng Ngô.
II. LƯU BỊ
Hán Chiêu Liệt Đế
Lưu Bị qua nét vẽ của Diêm Lập Bản, họa sĩ thời nhà Đường.
Hoàng đế Thục Hán
Trị vì 221 – 223
Tiền nhiệm Thành lập triều đại (trung hưng nhà Hán)
Kế nhiệm Hán Hoài Đế
[hiện]Hậu duệ
Tên đầy đủ
Húy: Lưu Bị (giản thể: 刘备, phồn thể: 劉備, bính âm: Liú Bèi)
Tự: Huyền Đức (玄德)
Niên hiệu
Chương Vũ (章武): 221–223
Thụy hiệu Chiêu Liệt Hoàng Đế (昭烈皇帝)
Triều đại Nhà Thục Hán
Thân phụ Lưu Hoằng
Sinh 161
Trác Châu, Hà Bắc
Mất 223
Bạch Đế Thành, Trùng Khánh
Hán Chiêu Liệt Đế (tiếng Trung: 漢昭烈帝; 161 – 223) tên thật là Lưu Bị (劉備), tự là Huyền Đức (玄德). Ông là một nhà chính trị, một nhà quân sự và đã trở thành hoàng đế xây dựng nên Thục Hán nhằm mục đích trung hưng nhà Hán vào thời kỳ Tam Quốc. Ông trở thành hoàng đế Trung Hoa từ năm 221-223 với niên hiệu Chương Vũ.
Lưu Bị là người huyện Trác (nay thuộc tỉnh Hà Bắc). Ông là con Lưu Hoằng, cháu Lưu Hùng, con cháu đời sau của Trung Sơn Tĩnh vương Lưu Thắng, con trai của vua Cảnh Đế nhà Tây Hán. Đến đời Lưu Bị, gia nghiệp sa sút, đành dựa vào nghề đan giày, bện chiếu mà sống. Năm 184, khởi nghĩa Khăn Vàng nổ ra, nhà Hán triệu tập anh hùng các nơi để đánh giặc, Lưu Bị đã cùng Quan Vũ,Trương Phi kết nghĩa anh em cùng nhau đánh giặc. Lưu Bị lung lạc bốn bể, theo phò nhiều người như Lã Bố, Viên Thiệu, Tào Tháo,Lưu Biểu... trong một thời gian. Trong thời gian này ông chiêu mộ được nhiều người như Triệu Vân, Gia Cát Lượng. Năm 208, sau khi Đông Ngô đánh bại Tào Tháo trong trận Xích Bích, Lưu Bị dẫn quân thừa thế cướp Kinh châu dẫn đến những mâu thuẫn với Đông Ngô. Năm 214, ông đánh chiếm Tây Xuyên gây dựng một thế lực lớn tại Trung Hoa thời bấy giờ. Năm 219, quân đội ông đánh bại quân Tào Tháo do Hạ Hầu Uyên chỉ huy trong cuộc tiến đánh Hán Trung. Năm 220, Tào Phi cướp ngôi nhà Hán, Lưu Bị lên ngôi hoàng đế tại Thành Đô thành lập nên nhà Thục Hán.
Trận Di Lăng đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp của ông. Đội quân của ông bị Đông Ngô đánh bại. Sau trận đánh, ông lui về thành Bạch Đế (nay là Trùng Khánh). Năm 223, ông mắc bệnh nặng và chẳng bao lâu qua đời, thọ 63 tuổi. Ông mất, sự nghiệp nhà Hán cũng ngả nghiêng vì con ông là Lưu Thiện không có tài trị nước
Khởi binh đánh quân Khăn Vàng và tham gia lộ quân Công Tôn Toản
Lưu Bị thu nạp được 2 người tài là Quan Vũ và Trương Phi. Trương Phi nguyện dốc hết gia sản chiêu mộ nghĩa binh. Lưu Bị nhờ đó tham gia trấn áp khởi nghĩa quân Khăn vàng mà nổi lên, từng cứu được cả Đổng Trác bị quân Khăn vàng vây khốn. Tuy nhiên đại tướng Hán là Hà Tiến cho rằng ông xuất thân nghèo hèn, chỉ ban cho chức Huyện lệnh Bình Dương.
Lưu Bị làm huyện lệnh Bình Dương một thời gian rồi từ quan, theo nương nhờ Công Tôn Toản, được cho giữ thành Bình Nguyên. Tại đây, ông gặp Triệu Vân, đối xử rất tốt khiến Triệu Vân cảm phục (sau này Triệu Vân đi theo Luư Bị và trở thành một trong Ngũ hổ tướng).
Sau khi Lưu Bị bỏ về ít lâu thì liên quân Quan Đông cũng tan rã, các chư hầu cát cứ quay ra chinh phạt lẫn nhau.
Giai đoạn ở Từ Châu
Năm 194, Tào Tháo lấy cớ cha mình bị giết khi đi qua địa phận Từ Châu, đem quân tấn công và tàn sát khắp Tứ Thủy, giết trên 10 vạn dân, bao vây thành Từ Châu. Đào Khiêm gửi thư cầu cứu các lộ quân cát cứ, nhưng chỉ có Lưu Bị là hưởng ứng. Ông mượn được 4000 quân của Công Tôn Toản để tới cứu Từ Châu.
Lưu Bị mượn quân của Công Tôn Toản đến Từ Châu giúp Đào Khiêm phá được vòng vây Tào Tháo, Đào Khiêm mến Lưu Bị nên có ý nhượng Từ Châu cho Lưu Bị nhưng Lưu Bị tiến cử Viên Thuật. Đào Khiêm liền hỏi ý kiến Khổng Dung, Khổng Dung chê Thuật là "xương khô trong mả", không thể đảm đương (trong Tam quốc diễn nghĩa thì nhận xét này được gán cho Tào Tháo). Đào Khiêm bệnh mất, trước khi mất đã cầu xin Lưu Bị nhận Từ Châu. Lưu Bị bất đắc dĩ phải nhận.
Sau đó Lữ Bố thua trận đến nương nhờ Lưu Bị, Lưu Bị cho ở nhờ. Sau đó, Lưu Bị được lệnh vua đi đánh Viên Thuật vừa xưng đế, giao Từ Châu lại cho Trương Phi, Lữ Bố đánh úp Từ Châu khiến Lưu Bị phải đến nương nhờ Tào Tháo, nhờ Tào Tháo giúp đánh lại Lữ Bố. Quân Tào đánh bại Lữ Bố, chiếm Từ Châu.
Lưu Bị ở cạnh Tào Tháo ít lâu, biết Tào Tháo đã có ý dò xét, sau đó tính kế thoát thân. Ông xin Tào Tháo đi diệt Viên Thuật rồi trốn khỏi Tào Tháo. Lưu Bị mang 1000 quân đi chặn đánh Viên Thuật. Thuật bị thua trận phải quay trở lại và kiệt sức ốm chết. Cùng lúc, Lưu Bị mang 1000 quân đuổi được Thuật bèn chính thức ly khai khỏi Tào Tháo, mang quân chiếm lại Từ Châu, giết chết Xa Trụ.
Tào Tháo bèn đem quân đánh Lưu Bị, ba anh em Lưu, Quan, Trương thất tán mỗi người một nơi. Lưu Bị đến nương nhờ Viên Thiệu. Biết Lưu Bị còn sống, Quan Vũ trả ấn hầu rồi bỏ Tào Tháo để đi tìm Lưu Bị. Sau đó ba anh em đoàn tụ, Lưu Bị đến nương nhờ Lưu Biểu sau đó được cho đồn trú ở Tân Dã.
Ba lần tới lều tranh mời Gia Cát Lượng
Ở Tân Dã được ít lâu, Tào Tháo sai Tào Nhân đem quân đánh Lưu Bị. Lưu Bị dùng kế mai phục, hỏa thiêu gò Bác Vọng, đánh tan quân Tào.
Năm 207, Lưu Bị lặn lội không quản đường dài, đích thân ba lần tìm đến gặp Gia Cát. Quan - Trương thấy đường xa mệt nhọc nên bảo Lưu Bị chỉ cần viết thư mời, nhưng Bị cho rằng muốn cầu hiền tài phải thể hiện được tấm lòng nên đều đích thân đi. Gia Cát Lượng cảm động vì lòng chân thành nên ra khỏi lều tranh, giúp ông trị nước.
Gia Cát Lượng trình cho Lưu Bị "Long Trung đối sách", bàn về tình hình thiên hạ, kiến nghị Lưu Bị liên kết với Tôn Quyền lấy Kinh Châu, Ích Châu, và chống họ Tào. Gia Cát Lượng nói:"Tào Tháo có thiên thời, Tôn Quyền có địa lợi, còn chúa công có Nhân hòa. Chúa công nên lấy Nhân Hòa làm trọng thì sẽ tạo thành thế chia 3 thiên hạ, từ đó có thể thu phục Trung nguyên, chấn hưng Hán thất". Từ đó Lưu Bị coi cuộc đối thoại đó là tư tưởng chiến lược thống nhất thiên hạ.
Năm 208, Tào Tháo mang đại quân tấn công Kinh châu. Lưu Biểu chết, con là Lưu Tông đầu hàng Tào. Lưu Bị thấy thế cô lực mỏng nên rút khỏi Phàn Thành, rồi phái Gia Cát Lượng sang Giang Đông dùng tài diễn thuyết để thuyết phục Tôn Quyền liên minh chống Tào. Đô đốc quân Ngô là Chu Du dùng hoả công đại phá quân Tháo ở Xích Bích, hình thành thế chân vạc.
Lên ngôi Hán Trung Vương
Năm 214, Lưu Bị giả vờ đến giúp đỡ Lưu Chương, là người cùng họ, nhưng đánh lén, chiếm lấy đất Thục. Từ đó ông có cả đất Kinh Châu và Ba Thục, trở thành một quyền lực lớn ở phía Tây, nhưng quân sư là Bàng Thống bị chết trong cuộc chiến.
Có ý kiến cho rằng Tào Tháo bỏ cơ hội đánh Tây Xuyên vì ông không đánh giá cao tài năng quân sự của Lưu Bị và trở về để lo dọn đường cho việc xưng vương. Đầu năm 219, Lưu Bị đem quân đánh Hán Trung. Quân Thục qua sông Miện Thuỷ, dựa vào sườn núi Định Quân đóng quân. Tướng Ngụy là Hạ Hầu Uyên không biết là kế, mang toàn quân đến vây đánh, bị phục binh của tướng Hoàng Trung từ trên núi đổ xuống đánh ngang sườn, Uyên và Thứ sử Ích châu là Triệu Ngung cùng tử trận. Lưu Bị chiếm được Hán Trung, và tự xưng là Hán Trung Vương. Ông phong Ngũ Hổ Tướng gồm có: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu và Hoàng Trung. Ngụy Diên được cho trấn thủ Hán Trung.
Ngụy vương Tào Tháo được tin, đích thân mang đại quân từ Tràng An qua hang Tà Cốc vào Xuyên để quyết chiến. Lưu Bị giữ thế phòng thủ không ra giao chiến. Qua hơn 1 tháng khiêu chiến không đánh được trận nào, quân Tào mệt mỏi. Lưu Bị lại sai người lọt vào hàng ngũ quân Tào làm nội ứng, phao tin đồn khiến quân Ngụy suy giảm nhuệ khí. Tào Tháo chán nản phải rút lui.
Năm 220, sau khi Tào Phi phế vua Hán Hiến Đế và xưng đế (tức Ngụy Văn Đế), Gia Cát Lượng cùng quần thần khuyên can 5 lần, Lưu Bị mới đồng ý lên làm hoàng đế, lấy quốc hiệu là Hán để kế tục nhà Hán (sử gọi là Thục Hán để phân biệt), đóng đô ở Thành Đô.
Đánh Ngô thất bại
Sau 12 năm, Tào Tháo và nhiều tướng tài của Ngụy cũng đã qua đời. Long Trung đối sách cũng đã hoàn thành một nửa, thiên hạ chia 3, Lưu Bị đã có Kinh Châu, Ích Châu và Hán Trung, Thục-Ngô liên minh chống Tào. Tiếp theo Thục Hán sẽ hòa hoãn với Đông Ngô rồi phát binh, chia 2 mũi từ phía Tây và phía Nam hợp kích đánh bại Tào Ngụy để khôi phục nhà Hán.
Nhưng Quan Vũ không nghe theo ý kiến Gia Cát là "Đông hòa Tôn Quyền bắc cự Tào Tháo", liên tiếp tỏ ý khiêu khích Đông Ngô. Nhân lúc Quan Vũ đem quân tấn công quân Tào, Tôn Quyền sai đại tướng Lã Mông đánh úp lấy Kinh Châu, Quan Vũ bị bắt sống rồi bị chém đầu. Lưu Bị nổi giận mang quân báo thù làm cho quan hệ liên hiệp giữa Tôn Quyền và Lưu Bị tan vỡ, chiến tranh Ngô-Thục nổ ra. Cũng bắt đầu từ đấy hễ Thục bị Ngụy tấn công thì Ngô không thèm dòm tới cũng như Ngô bị Ngụy xâm lăng thì Thục cũng không tiến sang đông.(“Sử Trung Quốc” của Nguyễn Hiến Lê).
Năm 221, Lưu Bị vì trả thù cho Quan Vũ, cất đại quân đánh Ngô, mặc dù Gia Cát Lượng và Triệu Vân hết lòng khuyên can. Liền sau đó ông truyền ngay lệnh khởi quân sang đánh Ngô, cũng không đem Gia Cát Lượng, Triệu Vân hay Mã Siêu đi cùng.
Tôn Quyền sai Lục Tốn đứng ra chỉ huy. Trong trận Di Lăng, quân Thục bị Lục Tốn đánh cho thua to. Lưu Bị thua trận, xấu hổ với nhân dân Thục quốc nên không về triều mà ở tại thành Bạch Đế, rồi buồn bã mà sinh bệnh nặng.
Gửi con thành Bạch Đế
Năm sau, bị bệnh mất ở thành Bạch Đế (nay là huyện Phụng Tiết, Tứ Xuyên), hưởng thọ 62 tuổi. Trước khi lâm chung, ông cho gọi các con, Gia Cát Lượng và Triệu Vân đến căn dặn. Tại đây ông bày tỏ hối hận vì không nghe theo Khổng Minh, rồi bảo các con phải nhận Khổng Minh làm cha nuôi, mọi sự không được làm trái. Triệu Vân (tướng cuối cùng trong Ngũ Hổ tướng) cũng được ông gửi gắm. Cả hai đều bật khóc nguyện dốc hết sức phò trợ hậu chủ, thực hiện di nguyện khôi phục nhà Hán của Lưu Bị.
Ông được truy tôn là Hán Chiêu Liệt Hoàng đế. Con trưởng là Lưu Thiện lên kế vị, tức là Hán Hậu Chủ.
Giai thoại trong dân gian và trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa
Tam anh kết nghĩa vườn đào
Một hôm ra chợ, ông gặp hai người là Quan Vũ và Trương Phi đang cãi cọ và nhanh chóng nhận ra cả hai đều có tướng mạo, sức lực phi phàm. Ông can ngăn hai người rồi mời vào quán rượu cùng luận bàn thế sự, tỏ rõ ý chí của mình.
Cảm nghĩa khí và phong thái Lưu Bị cũng như tương đồng về lý tưởng, Quan Vũ - Trương Phi đã cùng ông kết nghĩa huynh đệ trong vườn đào. Tại đây ba người thề "Không cùng sinh cùng ngày cùng tháng, nguyện chết cùng ngày cùng tháng cùng năm". Dù không được chính sử chép lại và có thể chỉ là do dân gian thêu dệt, song điển tích "Kết nghĩa vườn đào" trở thành mẫu mực, được dùng để ẩn dụ về tình huynh đệ kết nghĩa keo sơn gắn bó.
Uống rượu luận anh hùng
Lưu Bị ở Hứa Xương bị Tào Tháo giám sát. Ông ngầm liên kết với Đổng Thừa diệt Tào. Lưu Bị vẫn đề phòng việc Tháo có thể mưu hại, nên thường ra vườn sau trồng rau, tỏ ra không có tham vọng.
Một hôm Tào Tháo mời ông vào phủ uống rượu. Khi bàn luận ai đương thời xứng đáng là anh hùng, Lưu Bị kể ra những Viên Thiệu, Viên Thuật, Tôn Sách, Lưu Biểu... song Tào Tháo đều chê bai những người đó, bảo anh hùng "Phải là người nuôi chí lớn trong tim óc, lại phải có mưu cao kế giỏi, có tài bao tàng cả máy vũ trụ trong lòng, có chí nuối trời mửa đất" và nói: "Anh hùng trong thiên hạ ngày nay, chỉ có Sứ quân với Tháo này thôi!"
Lưu Bị giật nẩy mình, đôi đũa cầm trên tay rơi xuống đất. Vừa vặn có tiếng sấm nổ ran. Ông từ từ cúi xuống, vừa lượm đôi đũa và nói lý do mình làm rơi đũa vì sấm, khiến Tào Tháo khỏi nghi ngờ chí lớn của ông.
Dùng nghĩa cảm Từ Thứ
Năm ông 47 tuổi, Lưu Bị gặp mưu sĩ Từ Thứ. Tào Tháo sai Tào Nhân đem 5 vạn quân đánh Lưu Bị chỉ có 5000 quân. Lưu Bị được Từ Thứ hiến kế mai phục, đánh tan quân Tào. Biết Lưu Bị đã có nhân tài, Tào Tháo dùng mẹ Từ Thứ ép ông phải rời Lưu Bị.
Có người khuyên Lưu Bị nên tìm cách giữ chân Từ Thứ, Tào Tháo đợi lâu sẽ giết mẹ Thứ, nhờ đó Thứ sẽ vì báo thù mà càng ra sức giúp. Nhưng Lưu Bị không đồng tình vì ông không muốn lợi dụng Từ Thứ. Từ Thứ trước khi ra đi tiến cử Gia Cát Lượng cho ông.
Tính cách
Lưu Bị tuy dòng dõi tôn thất, nhưng xuất thân là kẻ dệt cói, đóng giày, không đất dung thân, lúc dưới trướng Tào Tháo, khi nương nhờ Viên Thiệu, Lưu Biểu... vậy mà cuối cùng đã chia ba thiên hạ, làm vua một nước. Trong khi đó Tào Tháo, Tôn Quyền đều là con cháu thế gia, có sẵn gia nghiệp để gây dựng cơ đồ.
Bí quyết thành công của Huyền Đức nằm trong hai chữ Nhân Hòa. Trong đoạn trường gây dựng sự nghiệp, có thể có nhiều điều Lưu Bị phải nhờ Khổng Minh chỉ cho. Song, hai chữ Nhân Hòa thì Lưu Bị không phải đợi đến Khổng Minh, mà điều đó đã là máu thịt của Lưu Bị vậy. Lưu Bị là Nhân Hòa, phi Nhân Hòa bất thành Lưu Bị. Vì thế, khi nghe Khổng Minh nói:"Chúa công ở giữa nên lấy Nhân Hòa", Lưu Bị đã thấy ngay mình gặp được Khổng Minh như cá gặp nước.
Lưu Bị là một nhà lãnh đạo có sức hút và rất giỏi thu phục lòng người. Ông có trong tay nhiều nhân tài, những người này đều trung thành theo ông tới chết (không như nhà Ngụy diễn ra nhiều cuộc phản loạn, tiêu biểu là cha con Tư Mã Ý giết vua Ngụy chiếm ngôi). Bởi có Nhân Hòa mà Lưu Bị có được dưới trướng những người hiền tài nhất trong thiên hạ nhưKhổng Minh, Quan Vân Trường, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung, Khương Duy...
Với tài thu phục nhân tâm, Lưu Bị thu nạp được rất nhiều người tài. Thuở lập nghiệp, ông dù tay trắng nhưng 2 mãnh tướng Quan Vũ, Trương Phi vẫn bất chấp khó khăn mà phụng sự ông tới cùng. Lưu Bị có Gia Cát Lượng làm quân sư, sau đó, có thêm 1 đại quân sư nữa là Bàng Thống. Và, nhờ Nhân Hòa mà Triệu Vân hai bận quên chết cứu ấu chúa, lão tướng Hoàng Trung quên tuổi tác ba phen đòi lên ngựa cầm gươm. Nhờ có Nhân Hòa mà Lưu Bị làm nên nghiệp đế. "Thiên thời bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa" (Thuận cơ trời không bằng địa lợi, được địa lợi không bằng được lòng người), Mạnh Tử nói thế quả đúng vậy.
Tuy nhiên, không phủ nhận như những bá chủ thời loạn khác, rõ ràng Lưu Bị là nhà lãnh đạo có tham vọng rất lớn, và là một người biết nắm bắt cơ hội. Ông cùng Tào Tháo phá Lã Bốở Từ Châu, nhưng Lưu Bị lại khuyên Tào Tháo giết Lã Bố, trừ đi mối họa sau này. Sau đó ông dùng mưu thoát khỏi Tào Tháo để chạy theo Viên Thiệu, sau đó rời bỏ Viên Thiệu để nương nhờ Lưu Biểu. Sau trận Xích Bích, ông chớp thời cơ chiếm lấy Kinh Châu trước quân Ngô, lập Lưu Kỳ vốn ốm yếu làm bình phong để từ chối giao Kinh Châu.
Rõ ràng nhất là việc đánh úp Lưu Chương chiếm đất Thục, rồi cho Lưu Chương chức Huyện lệnh để giam lỏng. Ông cũng cho người giết Bành Dạng, một trong số những người giúp ông chiếm Ba Thục. Và sự nhanh nhạy của Lưu Bị cũng bộc lộ phần nào trong các mẩu chuyện dân gian như “Mượn sấm để lừa Tào Tháo”, “Quẳng con mua lòng tướng”.
Tài cầm quân của Lưu Bị, tuy bị che lấp bởi Gia Cát Lượng và các tướng dưới quyền, nhưng cũng có nhiều trận ông thể hiện được tài cầm quân. Khi Kinh Châu bị Tào Tháo vây, Lưu Bị chỉ có 4.000 quân, chiêu hàng được vài ngàn nạn dân Ô Hoàn, rồi lại được Đào Khiêm cấp 4.000 quân nữa, có hơn 1 vạn người mà đã phá được vòng vây của 5 vạn quân Tào, cùngĐào Khiêm thế thủ ở Đan Dương. Hay việc Lưu Bị chỉ có 1 vạn quân mà phá được Viên Thuật có 4 vạn quân (việc mà Lã Bố cũng chưa làm được)
Gia đình
Cha: Lưu Hoằng(劉弘), hậu duệ của Lưu Thắng
Chú:
Lưu Nguyên Khởi (劉元起), em trai của Lưu Hoằng
Lưu Tử Kính (劉子敬)
Vợ:
Cam phu nhân, mẹ của Lưu Thiện, sau khi mất được tôn vinh là Chiêu Liệt hoàng hậu
My phu nhân em gái của Mi Trúc
Tôn phu nhân, em gái của Tôn Sách
Ngô hoàng hậu
Con:
Lưu Thiện con của Cam phu nhân
Lưu Vĩnh (劉永)
Lưu Lý ((劉理)
Hai người con gái, bị Tào Thuần bắt trong trận Trường Bản, sau lấy con trai Tào Thuần
Con nuôi:
Lưu Phong, tên thật là Khấu Phong, bị buộc tự tử năm 220
Cháu:
Lưu Tuyền, con trai lớn của Lưu Thiện
Lưu Dao (劉瑤), con trai thứ 2 của Lưu Thiện
Lưu Tông (劉琮), con trai thứ 3 của Lưu Thiện
Lưu Toản (劉瓚), con trai thứ 4 của Lưu Thiện
Lưu Kham, con trai thứ 5 của Lưu Thiện
Lưu Tuân(劉恂),con trai thứ 6 của Lưu Thiện
Lưu Cừ(劉璩), con trai thứ 7 của Lưu Thiện
Lưu Dận(劉胤), con trai lớn của Lưu Lý, chết lúc 19 tuổi
Lưu Tập(劉輯), con trai thứ 2 của Lưu Lý
Chắt:
Lưu Thừa (劉丞), con của Lưu Dận, chết lúc 20 tuổi
Lưu Huyền (劉玄), cháu của Lưu
III. TRIỆU VÂN ( TRIỆU TỬ LONG)

Triệu Vân (chữ Hán: 趙雲, bính âm: Zhao Yun; ?-229), tên tự là Tử Long (子龍), người vùng Thường Sơn, là danh tướng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán.
Thời trẻ
Triệu Vân sinh năm 168 tại huyện Chân Định (正定县) thuộc quận Thường Sơn (常山郡, hiện nay là huyện Chính Định, tỉnh Hà Bắc, phía bắc Trung Quốc). Ông có ngoại hình hùng dũng, uy phong lẫm liệt, giỏi võ nghệ và có tài thao lược.
Năm 184, quân Khăn Vàng nổi dậy chống triều đình nhà Hán. Triệu Vân được người trong quận cử cầm quân đến gia nhập với tướng Công Tôn Toản để đánh dẹp.
Theo Công Tôn Toản
Năm 191, liên minh chống Đổng Trác tan rã, các chư hầu quay sang đánh lẫn nhau. Viên Thiệu đoạt Ký châu của Hàn Phức, nhiều người đến quy phục. Nhưng Triệu Vân không đến theo Viên Thiệu, lại đến theo Công Tôn Toản. Ông theo Công Tôn Toản chinh chiến, trong đó có những trận đụng độ với Viên Thiệu.
Lưu Bị khi đó lực lượng còn mỏng, cũng đến nhờ Công Tôn Toản. Lưu Bị gặp Triệu Vân, rất quý mến ông và kết giao.
Năm 193, Công Tôn Toản giao tranh với Viên Thiệu, cử Điền Khải đi làm thứ sử Thanh châu để chống Viên Thiệu và sai Lưu Bị đi giúp Điền Khải. Triệu Vân cũng được cử đi tháp tùng.
Sau đó Triệu Vân trở về với Công Tôn Toản. Giữa lúc Công Tôn Toản và Viên Thiệu giao tranh ác liệt, anh cả của Triệu Vân qua đời, ông cáo từ Công Tôn Toản về quê để tang anh. Lưu Bị đoán Triệu Vân nhân dịp này sẽ đi luôn, nên tìm gặp ông và cầm tay hẹn ngày gặp lại.
Phò tá Lưu Bị: Tập hợp lực lượng
Năm 199, Công Tôn Toản bị Viên Thiệu tiêu diệt và chiếm cứ U châu. Năm 200, Lưu Bị giao tranh với Tào Tháo ở Từ châu thua trận, chạy đến Ký châu nương nhờ. Triệu Vân đến tìm Lưu Bị, hai người ăn ở cùng nhau tại Nghiệp Thành (thủ phủ Ký châu). Triệu Vân theo lệnh của Lưu Bị, ngầm chiêu tập binh mã được vài trăm người, Viên Thiệu không hay biết.
Ít lâu sau Viên Thiệu và Tào Tháo đánh lớn, Lưu Bị bỏ Viên Thiệu chạy về phía nam, tụ tập được hai người em bị lạc là Quan Vũ và Trương Phi, cùng về Kinh châu theo Lưu Biểu. Triệu Vân theo đi.Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Triệu Vân và Lưu Bị chưa gặp lại nhau khi Lưu Bị còn ở chỗ Viên Thiệu. Hai người gặp lại nhau sau khi anh em Lưu Bị đã đoàn tụ sau thất bại Từ châu.
Trận Bác Vọng
Khoảng trước năm 204, Triệu Vân theo Lưu Bị khởi binh từ Tân Dã đi đánh Tào Tháo, qua Nam Dương và Bác Vọng, Trường Sơn (tức núi Phương Thành), sau đó đến huyện Diệp ở phía tây nam Hứa Xương. Tướng Tào trấn thủ huyện Diệp là Hạ Hầu Đôn, Vu Cấm và Lý Điển. Lưu Bị đánh huyện Diệp không nổi phải rút lui.
Hạ Hầu Đôn mang quân truy kích, Lưu Bị đặt phục binh ở gò Bác Vọng. Triệu Vân tham chiến đánh bại Hạ Hầu Đôn và Vu Cấm, bắt sống bộ tướng của Hạ Hầu Đôn là Hạ Hầu Lan. Hạ Hầu Đôn phải lui binh, còn Lưu Bị cũng không truy kích tiếp, rút về Tân Dã.Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng trận Bác Vọng diễn ra năm 208 khi Tào Tháo nam chinh hạ Kinh châu, và đây chính là trận đầu tiên Gia Cát Lượng tham gia với tư cách quân sư trong quân Lưu Bị. mưu kế ở Bác Vọng do Lưu Gia Cát Lượng dang trận
Hạ Hầu Lan vốn là người cùng làng với Triệu Vân, từ nhỏ là bạn ông, vì vậy ông xin với Lưu Bị tha chết cho Lan. Lưu Bị đồng ý. Triệu Vân tuy vì bạn xin hộ nhưng không coi Hạ Hầu Lan là người thân tín, mà nói rõ cho Lan biết nguyên tắc tiến cử việc trong quân. Mọi người đều xem trọng ông là người suy xét thận trọng.
Hai lần đoạt lại A Đẩu
Năm 208, Tào Tháo mang quân đánh chiếm Kinh châu. Lưu Bị giao tranh với Tào Tháo ở Đương Dương, Tràng Bản bị thua lớn, bỏ chạy về phía nam. Quân dân Lưu Bị chạy tan tác. Trong lúc hoảng loạn nhiều người nói Triệu Vân đã bỏ sang hàng Tào nhưng Lưu Bị một mực tin tưởng ông.
Trong lúc đó Triệu Vân còn xông pha trận địa, cứu được mẹ con Cam phu nhân (vợ Lưu Bị) và con trai nhỏ của Lưu Bị là A Đẩu (tức Lưu Thiện) ra khỏi vòng vây chạy về với Lưu Bị. Lưu Bị vô cùng cảm kích, còn những người nghĩ sai về ông rất xấu hổ.Tam Quốc diễn nghĩa mô tả việc Triệu Vân phá vây cứu A Đẩu rất ly kỳ hấp dẫn. Bà vợ Lưu đi cùng A Đẩu lại không phải Cam phu nhân (mẹ đẻ A Đẩu) mà là My phu nhân (vợ thứ Lưu Bị). My phu nhân trao A Đẩu cho Triệu Vân rồi tự sát để khỏi vướng chân ông. Khi trở về, Lưu Bị đã vứt A Đẩu xuống đất mắng: “Vì mày suýt nữa ta mất một đại tướng!”
Triệu Vân được phong làm Nha môn tướng quân. Ông cùng các tướng của Lưu Bị tham gia liên minh với Tôn Quyền chống Tào Tháo, đánh bại Tào Tháo ở trận Xích Bích, sau đó đánh chiếm các quận phía nam Kinh châu. Ông được giao giữ chức Thái thú quận Quế Dương thay hàng tướng Triệu Phạm.
Triệu Phạm có người chị dâu ở góa 3 năm, rất xinh đẹp, muốn gả cho Triệu Vân, nhưng ông không đồng ý. Sau này Triệu Phạm bỏ trốn, Triệu Vân không bị liên lụy vì việc đó
Năm 213, Lưu Bị mang quân vào đánh Ích châu. Tôn phu nhân vợ mới của Lưu Bị là em gái Tôn Quyền thường tự ý dắt lính tráng theo hầu diễu võ dương oai, phạm vào pháp luật. Lưu Bị tin cậy Triệu Vân, giao ông giữ chức Tư mã ở Kinh châu, quản lý việc trong cung.
Tôn Quyền nghe tin Lưu Bị đi vắng, bèn phái một đội thuyền đến Kinh châu đón em gái về. Tôn phu nhân muốn mang theo con Lưu Bị là Lưu Thiện lúc đó mới 7 tuổi, về theo. Triệu Vân nghe tin, vội cùng Trương Phi mang quân ra chặn sông, khuyên Tôn phu nhân ở lại nhưng Tôn phu nhân không nghe. Hai tướng đành để Tôn phu nhân đi, nhưng buộc phu nhân để lại A Đẩu.
Vào Tây Xuyên
Năm 214, việc đánh chiếm Ích châu gặp khó khăn, Lưu Bị phải quay về ải Hà Manh. Triệu Vân được lệnh cùng Trương Phi, Gia Cát Lượng mang quân vào Tây Xuyên trợ chiến. Ông cùng Gia Cát Lượng và Trương Phi đánh về phía tây, bình định các huyện. Khi đến Giang châu, Triệu Vân từ Mân Giang tiến lên Giang Dương rồi vào hội binh với Gia Cát Lượng ởThành Đô.
Sau khi chiếm được Giang châu, Trương Phi cùng Gia Cát Lượng đi theo đường phía bắc, còn Triệu Vân cầm cánh quân đi theo đường phía nam, cùng hội ở Lạc Thành. Ông theo đường phía tây nam xuống chiếm Giang Dương, tiến vào quận Kiện Vi, rồi lên phía bắc qua Nội Giang, Tư Trung, Giản Dương. Sau đó Triệu Vân hội binh với Trương Phi và Gia Cát Lượng cùng giúp Lưu Bị đánh hạ Lạc Thành.
Lưu Chương đầu hàng. Lưu Bị giành được Tây Xuyên, Triệu Vân được phong làm Dực quân tướng quân. Nhiều người kiến nghị chia nhà cửa, ruộng vườn ở Thành Đô làm phần thưởng cho các tướng. Triệu Vân phản đối, ông nói:Xưa kia Hoắc Khứ Bệnh diệt Hung Nô mà nhà cửa không có. Nay quốc tặc không như Hung Nô, chúng ta không nên tham sự yên ổn. Đợi đến khi bình định được thiên hạ, chúng ta ai nấy trở về trồng dâu cấy lúa trên đất của mình, thế mới phải. Trăm họ Ích châu vừa trải qua loạn lạc, ruộng vườn nên trả cho họ cày cấy làm ăn. Như thế chúng ta mới làm họ yên lòng và mới trưng dụng được sức người sức của của họ được
Lưu Bị nghe theo, nhờ vậy Ích châu được ổn định dưới chính quyền mới.
Đánh lui quân Tào
Năm 219, Lưu Bị mang quân đánh sang Hán Trung mà Tào Tháo vừa chiếm của Trương Lỗ. Trận đầu Hoàng Trung đánh bại giết chết tướng Tào là Hạ Hầu Uyên. Tào Tháo khởi 20 vạn quân sang Đông Xuyên, vận theo rất nhiều lương thảo.
Hoàng Trung cho rằng có thể đánh cướp lấy lương thực của Tào Tháo, bèn mang quân đánh. Quá thời gian định ước với nhau và chưa thấy Hoàng Trung trở về, Triệu Vân bèn mang vài chục kị binh đi thám thính, đúng lúc chạm trán với quân Tào. Gặp quân Tào đông đảo nhưng ông không sợ hãi, cùng các kị binh phá vỡ vòng vây. Quân Tào khiếp sợ không dám lại gần, Triệu Vân vừa đánh vừa lui. Quân Tào thấy Triệu Vân ít người, ào ào đuổi theo, Triệu Vân cố sức đánh lui nhiều đợt truy kích của quân Tào, ngoảnh lại thấy bộ tướng Trương Trứ còn mắc trong vòng vây, lại đánh vào trong hàng ngũ quân Tào, cứu được Trương Trứ cùng thoát ra, trở về trại.
Trong trại quân Thục, Miêu dương trưởng là Trương Ký thấy quân Tào đánh đến trại, đề nghị đóng chặt cổng lại để thế thủ, nhưng Triệu Vân không nghe theo, đề nghị mở toang cổng trại, lệnh cho quân sĩ im hơi lặng tiếng. Quân Tào đuổi đến nơi, thấy trại quân Thục không cờ không trống, nghi là có phục binh nên rục rịch rút về. Quân Tào vừa quay lưng, Triệu Vân lập tức truyền lệnh, quân Thục nhất loạt bắn tên ra, còn Triệu Vân hạ lệnh thúc trống, tù và ầm ĩ. Quân Tào sợ bị đuổi riết vội xô nhau chạy một mạch tới bờ sông Hán Thủy, dẫm đạp lên nhau, bị rơi xuống sông chết khá nhiều.
Hôm sau, Lưu Bị đến tận nơi, hết lời khen ngợi ông. Từ đó trong quân gọi ông là “Hổ uy tướng quân”.
Can gián đánh Ngô
Tôn Quyền tập kích Kinh châu, Quan Vũ bị bắt và bị sát hại. Lưu Bị giận dữ khởi đại quân đi báo thù. Triệu Vân khuyên Lưu Bị:Giặc nước là Tào Tháo chứ không phải Tôn Quyền. Hơn nữa, nếu diệt được Tào Tháo, Tôn Quyền ắt phải thần phục. Hiện nay tuy Tào Tháo đã chết, nhưng con là Tào Phi lại cướp ngôi nhà Hán. Chúng ta hãy thuận theo lòng dân hãy chiếm lấy Quan Trung, giữ chặt vùng thượng du Vị Thủy, Hoàng Hà mà thảo phạt nghịch tặc. Như vậy các nghĩa sĩ ở Quan Đông sẽ kéo nhau đến tiếp vương sư. Nay ta gạt Ngụy sang một bên để đánh Ngô, chỉ sợ vừa mới đánh nhau đã không sao rút ra nổi
Lưu Bị không nghe theo, thân chinh khởi binh đánh Ngô, để Triệu Vân ở lại giữ Hán Trung. Năm 222, Lưu Bị đại bại ở Hào Đình, Triệu Vân mang quân đến Vĩnh An tiếp ứng đón rước, quân Ngô lui về.
Thời Lưu Thiện
Lưu Bị mất, ông tiếp tục phục vụ Lưu Thiện. Năm 223, Triệu Vân được Lưu Thiện phong làm Trung hộ quân, Chinh nam tướng quân, Vĩnh Xương đình hầu, sau đó thăng lên Trấn đông tướng quân.
Năm 227, thừa tướng Gia Cát Lượng tập kết quân đội ở Hán Trung chuẩn bị đánh Ngụy, Triệu Vân theo ra chiến dịch.
Năm 228, Gia Cát Lượng ra quân, Triệu Vân được cử đi cùng Đặng Chi mang ít quân ra Tà Cốc, còn mình khởi đại quân ra Kỳ Sơn. Trong lúc Nhai Đình thất thủ khiến Gia Cát Lượng phải lui đại quân về Hán Trung thì Triệu Vân và Đặng Chi cũng chỉ có ít quân, bị Tào Chân đánh bại ở Cơ Cốc phải rút về. Triệu Vân đi chặn hậu, quân Thục rút lui có kỷ luật không bị tổn thất.
Về nước, ông bị hạ chức thành Trấn quân tướng quân. Gia Cát Lượng thấy ông không để tổn thất quân sĩ, cho phép ông lấy vải vóc để thưởng cho quân, nhưng ông từ chối vì đội quân của ông đã để thua trận không đáng nhận thưởng.
Qua đời
Năm 229, Triệu Vân bị bệnh mất ở Hán Trung, quân sĩ nước Thục vô cùng nuối tiếc. Mãi tới năm 260, Lưu Thiện mới truy phong cho các tướng đã quá cố, thì 4 vị Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu và Hoàng Trung đều được truy tặng tước hầu, chỉ có Triệu Vân không ở trong số đó.
Đại tướng quân Khương Duy và một số tướng lĩnh tỏ ra bất bình với Lưu Thiện về việ này, đề nghị phải truy phong cho ông. Sang năm 261, Lưu Thiện mới truy phong ông làm "Thuận Bình hầu" (順平侯).
Miếu thờ và tượng Triệu Vân tại Chính Định, Hà Bắc, Trung Quốc
Triệu Vân có vợ là Mã Vân Liễu (Mã Vân Liễu là em gái của Mã Siêu), hai con trai là Triệu Thống và Triệu Quảng. Người con thứ hai là thuộc cấp của Khương Duy và chết tại trận Đạp Trung.
Nhận định
Triệu Vân là tướng có uy dũng ngoài mặt trận, nhưng trong màn trướng, ông là người chính trực, lâm sự bình tĩnh, một lòng vì nước, rất được lòng mọi người. Trong việc chính sự, Triệu Vân cũng được xem là người có tư duy nhạy bén, suy nghĩ thấu đáo.
Có ý kiến cho rằng, Triệu Vân là đại ân nhân của Lưu Thiện, hai lần cứu Lưu Thiện khỏi lọt vào tay Ngụy, Ngô; việc Lưu Thiện không truy phong cho ông đợt năm 260 là vong ân bội nghĩa; nhưng lại có ý kiến lý giải rằng do Triệu Vân chưa từng có danh hiệu ngang hàng vớiQuan, Trương, Mã, Hoàng, thậm chí sau khi bại trận ở Cơ Cốc năm 228 còn bị giáng xuống làm Trấn quân tướng quân, quân hàm đứng dưới hẳn 4 vị kia. Vì vậy, Lưu Thiện kế thừa cách làm của cha, chỉ sau khi có ý kiến của Khương Duy cũng bù đắp bằng cách truy tặng tước Thuận Bình hầu cho ông.
Trong Tam Quốc diễn nghĩa
Triệu Vân trong trận Trường Bản
Triệu Vân trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung được mệnh danh là một trong “ngũ hổ tướng” của Lưu Bị. Nhưng các sử gia khẳng định Triệu Vân không được đứng ngang hàng với 4 vị tướng kia: Khi Lưu Bị xưng vương đã phong 4 chức vụ quân sự cao nhất cho 4 người: Quan Vũ là Tiền tướng quân, Trương Phi là Hữu tướng quân, Mã Siêu là Tả tướng quân và Hoàng Trung là Hậu tướng quân, còn Triệu Vân chỉ là Dực quân tướng quân đứng dưới 4 người đó và chỉ ngang hàng với Giản Ung, My Trúc, Tôn Càn – những người có công lao kém Triệu Vân rất nhiều. Điều này gây khó hiểu cho chính các sử gia. Dưới quyền Lưu Bị đương thời không có ngũ hổ tướng, khái niệm này do nhà văn La Quán Trung theo dân gian truyền lại mà đặt ra.
Hình ảnh Triệu Vân trong Tam Quốc diễn nghĩa luôn được mô tả là viên tướng đánh trận dũng mãnh, quả cảm nhưng chắc chắn, tận tụy, không xốc nổi như Quan Vũ, Trương Phi, Mã Siêu. Đặc biệt chân dung Triệu Vân nổi bật trong trận Đương Dương Tràng Bản một mình phá vây hàng vạn quân Tào, chém gãy 2 lá cờ to, giết 50 danh tướng quân Tào. Bài thơ về Triệu Vân cứu chúa trong trận Đương Dương - Trường Bản:Máu đỏ chan hòa áo giáp hồngĐương Dương ai kẻ dám tranh hùngXưa nay cứu chúa xông trăm trậnChỉ có Thường Sơn Triệu Tử Long
Về tuổi tác Triệu Vân, La Quán Trung nói mang tính ước lệ. Một mặt ông luôn được mô tả là người trẻ trung, các nhà làm phim Tam Quốc diễn nghĩa cũng xếp tuổi ông dưới Lưu Quan Trương và để Lưu Thiện gọi ông là “chú Tư”, gương mặt ông trong điện ảnh thời Lưu Bị còn sống luôn thanh niên tráng kiện. Nhưng khi ông theo Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn lần thứ nhất năm 228, La Quán Trung lại nói Triệu Vân đã 70 tuổi; theo đó tính ngược lại thì Triệu Vân sinh năm 159, nghĩa là lớn hơn Lưu Bị 2 tuổi.

IV. QUAN VŨ

Quan Vũ (關羽, 162? - 220), cũng được gọi là Quan công (關公), tự là Vân Trường (雲長), Trường Sinh (長生) là một vị tướng thời kỳ cuốinhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là người đã góp công lớn vào việc thành lập nhà Thục Hán, với vị hoàng đế đầu tiên làLưu Bị. Ông cũng là người đứng đầu trong số ngũ hổ tướng của nhà Thục Hán theo cách nói của tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, bao gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu. Ông là anh em kết nghĩa với Lưu Bị và Trương Phi.
Là một trong những nhân vật lịch sử của Trung Quốc được biết đến nhiều nhất ở khu vực Đông Á, hình tượng của ông đã được tiểu thuyết hóa trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung và sau này được khắc họa trong các dạng hình nghệ thuật như kịch, chèo, tuồng, phim ảnh v.v với những chiến tích và phẩm chất đạo đức được đề cao cũng như được thần thánh hóa trong các câu chuyện dân gian, bắt đầu từ thời kỳ nhà Tùy (581-618). Ông cũng được thờ cúng ở nhiều nơi với tượng mặt đỏ, râu dài, tay cầm cây thanh long yển nguyệt và/hoặc cưỡi ngựa xích thố, đặc biệt là ở Hồng Kông. Tương truyền thanh long đao của ông nặng 82 cân (khoảng 40 kg ngày nay). Trong khi dân gian xem ông như một biểu tượng của tính hào hiệp, trượng nghĩa thì các nhà sử học cũng phê phán ông về các tính kiêu căng, ngạo mạn.
Quan Vũ người Giải Lương, quận Hà Đông. Tam Quốc ngoại truyện cho rằng ông là người Bồ châu. Ông cao chín thước (gần 3 mét ngày nay), mặt đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm, râu dài hai thước, oai phong lẫm liệt.
Theo Quan Đế minh thánh kinh, cụ nội Quan Vũ là Quan Long Phùng, ông nội Quan Vũ là Quan Thẩm (關審), tự là Vấn Chi (問之); cha ông là Quan Nghị (關毅), tự là Đạo Viễn (道遠).
Thời trẻ
Thời trẻ, Quan Vũ làm nghề bán đậu phụ. Tuy nhà nghèo, ông cũng được theo học cả văn lẫn võ. Ông là người vũ dũng, hào hiệp, ghét kẻ ác, thường bênh vực người yếu. Do bênh vực người khác mà ông phạm tội giết người, phải bỏ quê hương đến nương náu ở quận Trác.
Tại quận Trác, Quan Vũ đã gặp gỡ và trở nên thân thiết với Lưu Bị và Trương Phi. Ba người coi nhau như anh em, thề cùng sống chết có nhau.
Tham chiến ở Từ châu
Năm 184, khởi nghĩa Khăn Vàng của Trương Giác nổi lên, Quan Vũ cùng Trương Phi theo Lưu Bị khởi binh dẹp quân khởi nghĩa. Trong quá trình dẹp Khăn Vàng, ông là cánh tay đắc lực của Lưu Bị.
Sau đó Lưu Bị theo Công Tôn Toản làm Bình Nguyên tướng, bèn bổ nhiệm ông và Trương Phi làm Biệt hộ Tư mã, chia nhau thống lĩnh quân đội của Lưu Bị.
Năm 190, Viên Thiệu tập hợp chư hầu đánh Đổng Trác. Lưu Bị và Công Tôn Toản không đến dự hội minh với chư hầu như mô tả của Tam Quốc Diễn Nghĩa. Thực tế Quan Vũ cũng không dự cuộc chiến này và việc ông chém Hoa Hùng chỉ là hư cấu của La Quán Trung; Hoa Hùng bị Tôn Kiên hành hình năm 191 tại Dương Nhân (陽人), sau khi bị Kiên đánh bại.
Năm 193, Tào Tháo mang quân đánh Từ châu báo thù cho cha là Tào Tung vì nghi quan mục Từ châu là Đào Khiêm chủ mưu giết Tào Tung. Đào Khiêm cầu cứu thứ sử Thanh châu là Điền Khải. Khải lại cầu cứu đến Công Tôn Toản. Toản bèn sai Lưu Bị đi cứu. Quan Vũ cùng Trương Phi theo Lưu Bị đi cứu Từ châu với. Mấy cánh quân cứu viện cùng quân Từ châu tạo thế ỷ dốc khiến quân Tào không thể hạ được thành.
Không lâu sau, Lã Bố đánh chiếm Duyện châu của Tào Tháo. Tào Tháo buộc phải giải vây Từ châu, mang quân trở về cứu. Đào Khiêm rất cảm phục Lưu Bị đã cứu giúp.
Năm 194, do tuổi già sức yếu nên trước khi qua đời, Đào Khiêm tiến cử Lưu Bị làm Từ châu mục.
Lã Bố bị Tào Tháo đánh bật khỏi Duyện châu, bèn chạy đến Từ châu theo Lưu Bị. Ít lâu sau Viên Thuật mang quân đánh Từ châu, trong khi Lưu Bị đang cùng Thuật giao tranh thì Lã Bố đồng mưu với Thuật đánh úp thành Từ châu. Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi mắc kẹt ở Quảng Lăng không có đường về, đành phải trở lại Từ châu hàng Lã Bố, được Bố cho ở thành nhỏ Tiểu Bái.
Từ châu
Năm 198, Lã Bố lại trở mặt đánh Tiểu Bái. Tuy Quan Vũ và Trương Phi khỏe mạnh hơn người nhưng vì quân ít nên vẫn bị bại trận và theo Lưu Bị chạy khỏi Tiểu Bái và cầu viện Tào Tháo.
Tháng 9 năm đó, Tào Tháo và Lưu Bị hợp sức mang quân đến đánh Từ châu để trừ Lã Bố. Quan Vũ cũng dự trận này. Quân Tào vây thành đến tháng 10 năm đó, Lã Bố khốn cùng phải chạy lên lầu Bạch Môn. Sách Thục ký chép rằng: trong bước đường cùng, Lã Bố đã mang vợ mình đến chỗ Quan Vũ để lấy lòng ông, hy vọng ông nói giúp với Tào Tháo. Quan Vũ hỏi Tào Tháo rằng có nhận người đàn bà này được không, Tào Tháo nói rằng được. Nhưng sau đó Quan Vũ hỏi thêm mấy lần nữa khiến Tào Tháo cảm thấy hứng thú bèn sai ông mang vợ Lã Bố tới. Khi Quan Vũ mang vợ Lã Bố đến cho Tào Tháo, Tào ưng ý và giữ lại chỗ mình.
Cuối cùng Lã Bố bị Tào Tháo đánh đến lầu Bạch Môn và giết chết. Tào Tháo cùng Lưu Bị thu quân về Hứa Xương. Tào Tháo không trả lại Từ châu vốn của Lưu Bị được Đào Khiêm giao cho mà sai thủ hạ là Xa Trụ trấn thủ. Lưu Bị bị giữ lại Hứa Xương để kiềm chế.
Sách Thục ký chép rằng: Có lần Lưu Bị cùng đi săn với Tào Tháo, Quan Vũ lén khuyên Lưu Bị nên nhân lúc mọi người hỗn loạn mà giết Tào Tháo nhưng Lưu Bị không nghe theo vì tình thế không cho phép manh động.
Năm 199, Lưu Bị xin đi đánh Viên Thuật, Tào Tháo cấp 1.000 quân cho đi. Quan Vũ và Trương Phi lại hộ vệ Lưu Bị ra mặt trận, giúp Lưu Bị đánh bại Thuật. Thuật thua trận ốm chết.
Lưu Bị thừa cơ dẫn quân đánh chiếm Từ châu, giết Xa Trụ. Quan Vũ được bổ nhiệm làm thái thú Hạ Bì.
Đầu năm 200, Tào Tháo chia quân đi chuẩn bị đánh Từ châu. Lưu Bị biết mình thế yếu bèn sai người đi cầu cứu Viên Thiệu nhưng Thiệu chần chừ không ra quân. Tào Tháo gấp rút tiến đánh Từ châu. Vài ngàn quân của Lưu Bị không chống nổi, bị thua tan tác. Lưu Bị bỏ chạy sang Hà Bắc theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam, gia quyến Lưu Bị đều bị bắt; Quan Vũ không có đường chạy, buộc phải đầu hàng Tào Tháo, theo về Hứa Xương.
vụ cho Tào Tháo
Tào Tháo rất trọng vọng ông, phong làm thiên tướng quân,Hán Thọ Đình Hầu. Nhưng Tào Tháo để ý thấy ông không có ý ở lại lâu dài với mình, bèn sai Trương Liêu đến thăm dò ông. Quan Vũ thẳng thắn nói với Trương Liêu:Tào Công đối với tôi rất tốt, trong lòng tôi biết rõ. Nhưng tôi chịu ơn trời cao đất dày của Lưu tướng quân, từng thề là cùng sống cùng chết, không thể phản bội được. Tôi không thể lưu lại nơi này, chỉ có điều phải đợi lập được công, báo đáp Tào Công thì tôi mới đi.
Trương Liêu trở về nói lại với Tào Tháo. Tào Tháo không những không tức giận mà càng thêm kính trọng ông.
Viên Thiệu theo lời khẩn cầu của Lưu Bị bèn dẫn quân đi đánh Tào Tháo. Thiệu chia quân, một mặt đánh thành Bạch Mã, mặt khác đóng ở bến Diên Tân. Tháng 4 năm 200, Tào Tháo dẫn Quan Vũ và Trương Liêu đi cứu Bạch Mã; mặt khác lại chia quân ra Diên Tân để phân tán sự chú ý của Thiệu. Quả nhiên Thiệu tăng cường thêm quân cho Diên Tân mà không chú ý Bạch Mã. Tào Tháo nhân đó đột ngột thúc quân đánh mạnh ở Bạch Mã. Quan Vũ ra trận, giết chết mãnh tướng của Viên Thiệu là Nhan Lương, giải vây cho thành Bạch Mã.
Tháng 5 năm 200, Quan Vũ cùng Trương Liêu lại theo Tào Tháo đi men theo sông Hoàng Hà về phía tây đến cứu Diên Tân. Viên Thiệu cùng Lưu Bị và Văn Sú mang quân đuổi theo. Quan Vũ giúp Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu một trận nữa tại đây, giết chết được Văn Sú. Vì lực lượng ít hơn địch nên sau đó Tào Tháo hạ lệnh lui quân về phía nam Tế Thủy, tức là bến Quan Độ đóng đồn, còn Viên Thiệu đóng lại ở Diên Tân.
Sau trận Diên Tân, hai bên tạm hưu chiến. Tào Tháo càng khâm phục Quan Vũ, ban thưởng cho ông rất nhiều.
Lưu Bị thấy Viên Thiệu không đủ tài năng để chống Tào Tháo nên bỏ đi tự lập. Quan Vũ sau khi đã lập công trả ơn cũng lẻn trốn đi tìm Lưu Bị. Trong khi Tào Tháo đang theo dõi sát sao tình hình mặt trận Quan Độ và điều quân để quyết một trận kịch chiến thì Quan Vũ gói toàn bộ tặng phẩm của Tào Tháo để lại, viết một lá thư cáo biệt và lẳng lặng ra đi.Thủ hạ của Tào Tháo muốn truy kích ông nhưng Tào Tháo ngăn lại không cho đuổi theo. Trên đường về Hà Bắc,ông đã vượt qua năm ải và chém sáu tướng nhà Tào nhưng Tào Tháo vẫn bỏ qua cho ông.Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, La Quán Trung tập trung mô tả việc Quan Vũ lén đi khỏi chỗ Tào Tháo ở Hứa Xương sau trận Diên Tân. Tào Tháo còn kịp đi ra tiễn ông ở Hứa Xương. Trên thực tế hai bên Viên - Tào đối luỹ từ tháng 5 và cả Viên Thiệu lẫn Tào Tháo đều bám sát không rời chiến trường và Quan Vũ rời khỏi đại doanh Tào ở Diên Tân.
Trở lại giúp Lưu Bị dựng nghiệp
Sau đó ông gặp lại được Lưu Bị và Trương Phi, cùng nhau xây dựng lại lực lượng. Lưu Bị liên kết với tướng Khăn Vàng là Cung Đô ở Nhữ Nam. Trong khi đó, Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu trong trận quyết định ở Quan Độ năm 200 và năm sau lại đánh bại Thiệu một trận nữa ở Thương Đình (ven sông Hoàng Hà). Viên Thiệu thu quân về, tinh thần suy sụp.Tháng 6 năm 201, trong lúc họ Viên suy yếu, Tào Tháo mang quân về Hứa Xương rồi sai Sái Dương mang quân tấn công Lưu Bị ở Nhữ Nam. Quan Vũ cầm quân ra trận giết chết Sái Dương. Tào Tháo bèn tự cầm đại quân đi đánh. Quân Tào giết chết Cung Đô, Lưu Bị không chống nổi, phải bỏ chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu.Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc Sái Dương do Quan Vũ giết trong quá trình "qua 5 ải chém 6 tướng" sau khi chia tay Tào Tháo trước trận Quan Độ nhưng thực ra không có việc qua ải chém tướng của Quan Vũ và Sái Dương bị giết ở trận Nhữ Nam
Năm 208, Tào Tháo sau khi diệt họ Viên, làm chủ toàn bộ trung nguyên, bèn mang quân đánh Kinh châu. Lưu Bị từ Phàn Thành, chuẩn bị mang dân vượt sông, sai Quan Vũ mang mấy trăm chiến thuyền theo dòng sông, hẹn hội binh ở Giang Lăng.
Tào Tháo sợ Lưu Bị chiếm mất Giang Lăng là chỗ chứa nhiều lương thảo, bèn sai 5000 quân kỵ gấp rút đuổi theo. Lưu Bị giao chiến 2 trận đại bại, phải bỏ hết gia quyến chạy về Hán Tân và gặp Quan Vũ.
Tập hợp lực lượng trở lại, Lưu Bị liên kết với Tôn Quyền đánh bại Tào Tháo trong trận Xích Bích cuối năm 208. Trong trận này, Quan Vũ chỉ huy quân chủ lực của Lưu Bị tham chiến, đẩy lui quân Tào về bắc. Sau đó ông cùng Lưu Bị đánh chiếm các quận Kinh châu, được phong làm thái thú Tương Dương, Đãng khấu tướng quân.Tam Quốc Diễn Nghĩa kể tình tiết Quan Vũ trọng nghĩa tha cho Tào Tháo khi ông nhận lệnh đón Tào Tháo thua chạy về ở đường Hoa Dung.
Trấn giữ Kinh châu
Tháng 12 năm 211, Lưu Bị mang quân vào Tây Xuyên, Quan Vũ được giao ở lại giữ Kinh châu. Kinh châu thời Lưu Biểu nguyên có 7 quận, lúc đó chiến tranh qua lại giữa 3 phe Tào - Tôn - Lưu sau trận Xích Bích, mỗi bên còn giữ một phần: Lưu Bị có 4 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa, Vũ Lăng và một nửa quận Giang Hạ của Lưu Kỳ (con cả Lưu Biểu); Tôn Quyền chiếm được Giang Lăng, nửa quận Giang Hạ và nửa Nam quận; Tào Tháo còn giữ lại quận Nam Dương và nửa Nam quận. Sau khi Lưu Kỳ chết, Lưu Bị tiếp quản phần nửa quận Giang Hạ. Quan Vũ tiếp quản Kinh châu từ tay Lưu Bị với lãnh thổ 4 quận rưỡi.
Hội đàm với Lỗ Túc
Lưu Bị và Tôn Quyền ngoài mặt là em rể và anh vợ nhưng vẫn tranh chấp nhau vùng Kinh châu mà Lưu Bị mang tiếng “mượn” lâu ngày không trả.
Năm 214, nhân lúc Lưu Bị đã vào Tây Xuyên và điều động thêm nhiều quân cùng các tướng giỏi như Triệu Vân và Trương Phi, Tôn Quyền bèn sai Lỗ Túc và Lã Mông đánh mấy quận Kinh châu trong tay Quan Vũ. Quân Đông Ngô đông đảo, đánh chiếm 3 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa. Quan Vũ chỉ còn giữ được nửa quận Giang Hạ và quận Vũ Lăng. Lưu Bị ở Ích châu được tin, thấy tình hình Kinh châu nghiêm trọng, vội mang quân ra thành Công An thuộc quận Vũ Lăng, sai Quan Vũ mang quân đi đánh Lã Mông và Lỗ Túc.
Tôn Quyền cũng đích thân từ Ngô quận tiến ra Lục Khẩu phòng thủ và sai Lỗ Túc dẫn quân ra Ích Dương. Quan Vũ và Lỗ Túc gặp nhau tại Ích Dương. Hai bên hội đàm trước trận. Lỗ Túc hỏi Quan Vũ:Ba quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa là bên tôi cho các ông mượn, sao các ông không trả lại?
Quan Vũ đáp:Trong trận Xích Bích - Ô Lâm, Tả tướng quân (Lưu Bị) thân trong bộ ngũ, cùng các ông nhất tề ra sức, phá được quân địch, sao không được chia mảnh đất nào?
Lỗ Túc nói tiếp:Lần đầu tiên ta gặp Lưu Dự châu (Lưu Bị) của các ông ở Đương Dương Tràng Bản, quân số ông ta không đầy một hiệu, bản thân ông ta hết cách, muốn chạy nạn tới nơi xa. Chúa thượng bọn ta (Tôn Quyền) thương ông ta không nơi nương tựa nên cho ông ta chỗ yên thân (Kinh châu). Không ngờ Lưu Dự châu biết làm việc đạo đức lại vứt bỏ tình nghĩa, bây giờ đã có Ích châu lại muốn có cả Kinh châu. Đó là chuyện người thường cũng không nỡ làm, huống chi Dự châu sao có thể như thế?
Quan Vũ không trả lời được. Hai bên thu quân trở về.Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc hội đàm này là việc Quan Vũ “một đao tới hội” với Lỗ Túc và không có việc bị đuối lý với Lỗ Túc. Ông còn dùng mưu trí và uy dũng của mình để thoát khỏi sự uy hiếp của quân Đông Ngô.
Giảng hòa rồi bất hòa
Năm 215, thấy tình hình bất lợi và không thể dùng vũ lực đoạt lại các quận đã mất, Lưu Bị đành phải nhượng bộ Tôn Quyền, đề nghị chính thức công nhận chủ quyền 3 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa cho Đông Ngô, xin đổi lấy Nam quận. Tôn Quyền chấp thuận giảng hòa, phân chia lại Kinh châu, lấy sông Tương Thủy làm ranh giới. Quan Vũ tiếp nhận quận Giang Lăng, tướng của Tôn Quyền là Trình Phổ giao lại Giang Lăng, về giữ chức thái thú Giang Hạ. Tôn Quyền giao thêm phần nửa Nam quận cho Quan Vũ; đổi lại Quan Vũ chính thức giao lại quận Trường Sa và Quế Dương cho Tôn Quyền. Như vậy địa bàn Kinh châu của Quan Vũ từ năm 215 chỉ gồm có các quận Vũ Lăng, Giang Lăng và nửa Nam quận. Trên thực tế Quan Vũ vốn chỉ còn giữ được 1 quận và được Tôn Quyền bàn giao thêm 1 quận rưỡi.
Tôn Quyền sau đó tiếp tục muốn củng cố tình thân với Lưu Bị, bèn sai sứ giả đến xin cầu hôn con gái Quan Vũ cho con trai mình. Tuy nhiên, Quan Vũ không nhận thức được tầm quan trọng của liên minh Tôn – Lưu như Gia Cát Lượng từng nhấn mạnh, không những ông từ chối mà còn nhục mạ Tôn Quyền. Ông quát vào mặt sứ giả Đông Ngô:Con gái ta như loài hổ, lại thèm gả cho loài chó à!.
Từ đó quan hệ giữa Đông Ngô và Kinh châu lại căng thẳng hơn trước. Người duy nhất chủ trương giữ hòa khí với Lưu Bị là Lỗ Túc đã qua đời nên Tôn Quyền chủ trương ngả theo Tào Tháo để lấy toàn bộ Kinh châu.
Vây hãm Tương Phàn
Năm 219, Lưu Bị đánh chiếm được Đông Xuyên từ tay Tào Tháo, lại đánh lui được đại quân Tào, tự xưng là Hán Trung vương. Quan Vũ được phong làm Tiền tướng quân và ban cho cờ tiết, lưỡi phủ việt.
Trên đà thắng lợi, Lưu Bị sai Quan Vũ đang trấn thủ Kinh châu đem quân bắc tiến. Tháng 7 năm 219, Quan Vũ giao cho My Phương giữ Giang Lăng, Phó Sĩ Nhân giữ thành Công An, còn mình khởi đại quân bắc phạt đánh Tào Tháo. Ông vây hãm thành Tương Dương, sau đó lại vây đánh Phàn Thành do Tào Nhân trấn thủ. Phàn Thành nguy cấp.Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Quan Vũ đánh chiếm được Tương Dương.
Đúng lúc đó thì Tôn Quyền muốn nhân cơ hội Quan Vũ rời Kinh châu để lấy toàn bộ Kinh châu, bèn sai người dâng thư đến xin quy phục Tào Tháo, giúp Tào giáp công đánh Quan Vũ ở mặt đông. Tào Tháo mừng rỡ, nhưng vẫn dùng quyền thuật: một mặt nhận cho Tôn Quyền đầu hàng, lĩnh chức Kinh châu mục; mặt khác lại mang thư đầu hàng của Quyền buộc vào tên, sai quân bắn vào trại của Quan Vũ. Việc làm đó của Tào Tháo đẩy Quan Vũ và Tôn Quyền vào thế không đội trời chung khiến Tào có thể ngồi nhìn hai bên đánh nhau mà vẫn có thể giải vây cho Phàn Thành, giữ yên được mặt nam. Tuy nhiên, Quan Vũ không hoàn toàn tin vào thư đó, cho rằng Tào Tháo lắm mưu mô, phao tin sai để lung lạc mình.
Tháng 8 năm 219, mưa nhiều ngày không ngớt, nước sông Hán Thuỷ lên cao. Quan Vũ nhân đó khơi nước sông đổ vào ngoài thành. Bảy đạo quân Vu Cấm và Bàng Đức đóng đồn ở phía bắc Phàn Thành bị nước dìm chết gần hết, số ít bỏ chạy thoát. Cả hai tướng định chạy trốn không được, đều lần lượt bị bắt. Vu Cấm sợ hãi đầu hàng Quan Vũ, còn Bàng Đức không chịu hàng nên bị Quan Vũ sai mang chém.
Phàn Thành rất nguy cấp, nhiều chỗ trong thành bị nước sông làm sói lở, Tào Nhân và các tướng cố sức liều chết chống trả. Tại thành Tương Dương, Lã Thường cũng cố sức cầm cự trước sức tấn công của Quan Vũ. Hai thành bị ông vây ngặt, hoàn toàn không liên lạc được với nhau. Trước tình thế đó, các tướng Tào khác gồm thứ sử Kinh châu là Hồ Tu, thái thú Nam Dương là Trù Phương đều đầu hàng Quan Vũ.
Tào Tháo rất lo lắng, toan tính thiên đô - dời Hán Hiến Đế khỏi Hứa Xương. Sau nghe lời Tư Mã Ý phân tích lợi hại, Tào Tháo mới quyết định không thiên đô, sai Vu Cấm và Bàng Đứcmang quân đi cứu Phàn Thành.
Quan Vũ nhân đà thắng trận, dẫn quân tiến sâu vào Hiệp Hạ, kích động các bộ tộc thiểu số phản Tào. Nhiều lực lượng chống Tào ở phía nam Hứa Xương nhận ấn hiệu đi theo Quan Vũ. Trung nguyên rung động.
Thua trận ra Mạch Thành
Viện binh cứu Phàn Thành bị tiêu diệt, Tào Tháo vội sai Từ Hoảng mang quân đi cứu. Trong khi Quan Vũ mải đánh Vu Cấm thì Tôn Quyền cũng sai Lã Mông mang quân đánh úp Kinh châu.
Quan Vũ vốn hay yêu quý sĩ tốt nhưng lại coi thường các sĩ phu. Vì vậy hai tướng My Phương và Phó Sĩ Nhân vẫn bất mãn với ông. Lã Mông bất thần kéo đến, My Phương và Phó Sĩ Nhân theo lời thư dụ của Lã Mông, không giao chiến đã đầu hàng, dâng Giang Lăng và thành Công An cho Tôn Quyền.
Quan Vũ và Từ Hoảng đều là người quận Hà Đông, từ nhỏ đã quen biết nhau và quan hệ khá tốt. Tuy nhiên khi ra trận lần đó, Từ Hoảng quyết thắng Quan Vũ. Từ Hoảng dương đông kích tây, phao tin đánh đồn Vi Trủng nhưng kỳ thực đánh đồn Tứ Trủng. Quan Vũ mắc mưu nên bị thua nặng. Ông phải hạ lệnh giải vây Phàn Thành rút lui, quân bị rơi xuống sông Hán Thủy chết rất nhiều.
Quan Vũ chạy về nửa đường mới biết Giang Lăng và Công An đã mất. Ông vốn có thể chạy về phía tây bắc (gần Tây Xuyên) đến các quận Thượng Dung và Phòng Lăng, nhưng vì quan hệ với các tướng trấn giữ ở đó là Mạnh Đạt và Lưu Phong không tốt nên cùng đường phải chạy về phía nam ra Mạch Thành. Đến nơi, ông lại biết tin tướng Đông Ngô là Lục Tốnđã đánh chiếm được Nghi Đô. Trong khi Quan Vũ chờ đợi viện binh thì Mạnh Đạt và Lưu Phong án binh không đến cứu.
Tháng chạp năm 219, Tôn Quyền sai người dụ hàng ông. Trong tình thế bị quân Ngô truy kích, Quan Vũ biết không thể dùng lực lượng ít ỏi còn lại để kháng cự, nên một mặt giả vờ đầu hàng, sai một số quân ở lại giương cờ trắng trên thành, còn mình dẫn hơn 10 quân kỵ theo đường nhỏ đổi hướng chạy lên phía bắc, hy vọng men theo đường núi để thoát khỏi sự kiềm tỏa của Tôn Quyền để tới Ích châu hoặc Hán Trung (địa bàn của Lưu Bị).
Khi Quan Vũ chạy tới Lâm Thư thì bị tướng Ngô là Chu Nhiên và Phan Chương chặn đường. Ông bị bộ tướng của Phan Chương là Mã Trung bắt được mang về. Vì không chịu khuất phục Tôn Quyền nên ông bị giết chết.
Tào Tháo hậu táng
Tôn Quyền giết Quan Vũ, sai người mang đầu ông đến Lạc Dương nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo không mang đầu Quan Vũ đi bêu mà sai làm lễ tang trọng thể theo nghi thức an táng chư hầu.
Các nhà nghiên cứu cho rằng: Tào Tháo đã phụ nhiều người, nhưng chưa từng phụ Quan Vũ. Mặt khác việc làm đó còn mang ý nghĩa chính trị không nhỏ: Tôn Quyền nộp đầu Quan Vũ cho Tào Tháo để muốn thiên hạ biết rằng mình giết Vũ theo lệnh Tào Tháo, khiến Lưu Bị chĩa mũi nhọn vào họ Tào; nhưng Tào Tháo trọng táng Quan Vũ lại cho ra thông điệp khác: Tôn Quyền tự ý giết ông. Tào Tháo đã giải toả được sự hiềm nghi của mọi người và lái được mũi nhọn của Lưu Bị trở lại phía Tôn Quyền.Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng: Ngày Tôn Quyền mở tiệc khao Lã Mông, ông đã quay về giết chết Lã Mông. Vì hoảng sợ và để ly gián Ngụy và Thục nên đem đầu ông đến nộp cho Tào Tháo. Tào Tháo mở hộp đựng đầu Quan Vũ ra nhìn, thấy râu tóc dựng đứng lên, trừng mắt ra nhìn; vì vậy Tào Tháo hoảng sợ tới mức tái phát bệnh đau đầu và không lâu sau cũng chết.
Nhưng trên thực tế, không lâu sau khi đánh chiếm được Kinh châu cho Tôn Quyền, Lã Mông trở về cũng ốm nặng, không ăn uống được gì và qua đời
Quan Vũ qua đời không rõ bao nhiêu tuổi. Tam Quốc diễn nghĩa ghi ông thọ 58 tuổi, tức là sinh năm 162, nhưng các nhà sử học không xác nhận thông tin này là chính xác. Ông được Lưu Bị truy tặng chức Tráng Mậu hầu. Sau này Lưu Bị vì mối thù Quan Vũ đã mang quân đi đánh Tôn Quyền (năm 221).
Gia quyến
Quan Vũ có 2 con trai: Quan Bình và Quan Hưng. Quan Bình theo ông đi chiến trận, bị Đông Ngô bắt giết cùng ông năm 219.
Quan Hưng lớn lên ở Ích châu, được Gia Cát Lượng yêu mến, cất nhắc làm Thị trung và Trung giám quân. Quan Hưng qua đời sớm
Quan Vũ còn một người con gái là Quan Phụng, Tôn Quyền từng định hỏi cho con trai mình để kết thông gia nhưng ông từ chối.
Con trưởng Quan Hưng là Quan Thống làm tới chức Hổ bôn trung lang tướng, cũng mất sớm không có con trai.
Người con thứ của Quan Hưng là Quan Di, sau khi Quan Thống mất được tập tước Hán Thọ đình hầu.
Khi Thục Hán diệt vong (264), con Bàng Đức là Bàng Hội theo Chung Hội tìm hết nhà họ Quan ở Thành Đô tàn sát để trả thù cho cha.
Nhận định
Quan Vũ được đánh giá là người dũng cảm phi thường, đứng đầu toàn quân. Ông trọng điều nghĩa, giữ chữ tín, là bầy tôi trung thành. Dù được Tào Tháo hậu đãi nhưng ông không từ bỏ Lưu Bị; theo Lưu Bị nhiều năm phải trải qua gian lao khó nhọc nhưng ông vẫn một lòng không thay đổi.
Các nhà sử học nhất trí đánh giá Quan Vũ là người vũ dũng nhưng kiêu ngạo, không chịu ở dưới người khác. Năm 214, nghe tin Mã Siêu đến hàng Lưu Bị ở Tây Xuyên, Quan Vũ đang ở Kinh châu bèn viết thư cho Gia Cát Lượng hỏi:Nhân phẩm, tài năng của Mã Siêu có thể so sánh với ai?
Gia Cát Lượng phải lựa lời viết thư lấy lòng Quan Vũ:Mã Siêu chỉ có thể sánh ngang với Trương Phi, không thể siêu phàm tuyệt luân như ngài!
Ông đọc thư rất đắc ý và mang thư khoe với nhiều người.
Năm 219, Lưu Bị lên ngôi Hán Trung vương, phong ông làm Tiền tướng quân và lão tướng Hoàng Trung làm Hậu tướng quân. Quan Vũ thấy mình ở ngang hàng với Hoàng Trung, không bằng lòng, không chịu nhận ấn tín. Phí Vĩ phải lựa lời khuyên ông nên vì nghiệp lớn của Lưu Bị, ông mới tỉnh ngộ và thụ phong.
Khi trấn giữ Kinh châu, Quan Vũ đã không giữ nổi đất và để mất 3 quận. Tôn Quyền trên danh nghĩa “nhận” 3 quận do Quan Vũ bàn giao nhưng trên thực tế đã chiếm được trong tay; họ Tôn lại thực sự trao cho ông 2 quận đang nắm giữ. Việc trở mặt khinh mạn Tôn Quyền của Quan Vũ là một sai lầm. Sau này Tôn Quyền giết ông, các sử gia đánh giá rằng: Lưu Bị và Quan Vũ có nhiều điều không phải với Tôn Quyền, nhưng việc Tôn Quyền ngầm đầu hàng Tào Tháo từng là kẻ thù chung để đánh lén sau lưng Quan Vũ cũng là quá đáng.
Trần Thọ, tác giả sách Tam Quốc chí có đánh giá về ông cũng được đời sau ghi nhận là công bằng:Quan Vũ… sức địch vạn người, hổ thần một thời. Vũ báo ơn Tào công… có phong độ quốc sĩ. Nhưng Vũ cương và tự phụ,… lấy sở đoản chuốc lấy thất bại, là lẽ thường vậy.
Trong văn học: Tam Quốc diễn nghĩa
Tác giả La Quán Trung lấy nhà Hán làm chính thống và ủng hộ Lưu Bị, do đó Quan Vũ - người trợ giúp đắc lực của Lưu Bị - được mô tả là nhân vật chính diện, vũ dũng hào hiệp, có khí phách anh hùng.
Tình huynh đệ giữa ông với Lưu Bị và Trương Phi được La Quán Trung ca ngợi. Xuyên suốt trong Tam quốc, cụm từ "kết nghĩa vườn đào" là tượng trưng cho tình nghĩa huynh đệ thắm thiết, keo sơn, không vì phú quý, công danh, khó khăn, hoạn nạn mà mờ phai.
Cũng theo 'Tam Quốc Chí' thì Vân Trường không tuân theo sách lược của Khổng Minh là “Bắc cự Tào Tháo, Ðông hòa Tôn Quyền”. Tuy Vân Trường nói: “Tôi xin ghi tạc lời Quân sư chỉ bảo”, nhưng ông không thực hiện sách lược đó.
Sau đó, Tôn Quyền khiến Gia Cát Cẩn đến Kinh Châu, nói với Vân Trường: “Tôi đến có ý kết giao hai nhà. Chúa tôi có con trai thông minh, nghe ngài có con gái tuyệt sắc, nên muốn cầu thân. Nếu ưng thuận, chúng ta sẽ hiệp nhau đánh Tào.”
Nhưng Vân Trường nổi giận nói: “Con gái ta ví như loài hổ, há lại gả cho loài khuyển?”
Có lẽ đó là bước ngoặt dẫn đến cái chết của Vân Trường do Đông Ngô gây ra.
Gia quyến
Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Quan Bình là con nuôi chứ không phải con đẻ của Quan Vũ. Ngoài ra tiểu thuyết này còn dẫn thêm một người con nữa của ông là Quan Sách.
Chiến tích
Những nhà nghiên cứu Tam Quốc diễn nghĩa đã tổng kết: Quan Công lập nhiều công trận, trước sau chém được 17 viên tướng ngoài mặt trận:
Chém Trình Viễn Chí - tướng khởi nghĩa Khăn Vàng
Chém Hoa Hùng, tướng của Đổng Trác
Chém Quản Hợi, dư đảng Khăn Vàng
Chém Tuân Chính, tướng của Viên Thuật ở Vu Thai
Chém Xa Trụ, tướng của Tào Tháo ở Từ châu
Chém Nhan Lương, tướng của Viên Thiệu ở Bạch Mã
Chém Văn Xú, tướng của Viên Thiệu ở Diên Tân
Chém Khổng Tú ở ải Đông Lĩnh
Chém Mạnh Thản ở Lạc Dương
Chém Hàn Phức ở Lạc Dương
Chém Biện Hỉ ở Nghi Thủy
Chém Vương Thực ở Vinh Dương
Chém Tần Kỳ ở Hoạt châu
Chém Sái Dương ở Cổ Thành
Chém Hạ Hầu Tồn ở Tương Dương
Chém Dương Linh - tướng của Hàn Huyền ở Trường Sa
Ngoài ra, ông còn chém Bàng Đức sau khi bắt sống được viên tướng này ở Khoái Khẩu.
Những người trợ thủ đắc lực nhất cho ông ngoài mặt trận trong nhiều năm là con nuôi Quan Bình và Châu Thương.
Những điển tích từ tiểu thuyết
Đuốc sáng thâu đêm (Minh chúc đạt đán): Kể về sự việc khi Quan Vũ đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo cố ý sắp đặt cho Quan Vũ và 2 bà vợ Lưu Bị ở cùng một phòng để ông mắc lỗi đạo với Lưu Bị và không trở về với họ Lưu được nữa. Nhưng khi Cam phu nhân và My phu nhân đi ngủ, Quan Vũ đứng cầm đuốc bên ngoài canh gác suốt đêm cho tới sáng. Tào Tháo nghe vậy rất khâm phục ông.
Một đao đến hội (Đơn đao phó hội): Tôn Quyền muốn lấy lại Kinh châu, Lỗ Túc bày mưu dụ Quan Vũ đến hội ở Lục Khẩu và cho phục binh, nếu ông không đồng ý trả Kinh châu thì sẽ giết chết. Nhưng vì Quan Vũ quá uy dũng, vừa thủ thanh long đao trong tay, vừa nắm lấy Lỗ Túc khiến quân Ngô không thể động thủ. Quan Vũ trở về an toàn.
Cạo xương trị thương: Quan Vũ đánh Phàn Thành, bị trúng tên độc của Tào Nhân. Thuốc độc ngấm vào tận xương nguy hiểm tính mạng. Danh y Hoa Đà đến chữa, đề nghị gây mê ông để khỏi nhìn cảnh Hoa Đà khoét thịt cạo độc trong xương. Nhưng Quan Vũ không đồng ý, vẫn thản nhiên ngồi đánh cờ với Mã Lương trong lúc Hoa Đà chữa tay. Chính Hoa Đà phải khâm phục dũng khí của ông.
Vũ khí và ngựa chiến
Nhiều năm chinh chiến và lập công trận, Quan Vũ gắn bó với vũ khí là thanh long đao và ngựa chiến là ngựa xích thố.
Thanh long đao gọi là Thanh long yển nguyệt (yển nguyệt là trăng lưỡi liềm) do ông đặt rèn khi chuẩn bị đánh quân Khăn Vàng từ hồi 1 trong tiểu thuyết.
Con ngựa chiến Xích thố nổi tiếng của ông vốn là ngựa của Đổng Trác. Trác mang tặng Lã Bố để mua chuộc Bố phản Đinh Nguyên về theo mình. Lã Bố bị giết, ngựa về chuồng của Tào Tháo. Tào Tháo muốn lấy lòng ông bèn tặng ngựa xích thố cho ông. Ngựa quý một ngày có thể đi ngàn dặm, sau này theo Quan Vũ qua 5 ải chém 6 tướng và lập nhiều chiến tích khác.
Hiển thánh
Đề cao uy linh dũng khí của ông, La Quán Trung còn mô tảiệc ông hiển linh sau khi chết: vật chết Lã Mông trong dinh Tôn Quyền; thủ cấp nổi giận khiến Tào Tháo bệnh nặng qua đời; giúp con là Quan Hưng giết được Phan Chương để trả thù trận Mạch Thành.
Ngoài ra, La Quán Trung còn mô tả việc ông hiện lên đòi trả mạng chết oan khi gặp lại sư Phổ Tĩnh là người đồng hương. Sư Phổ Tĩnh lựa lời khuyên giải, ông mới ra đi.
Trọng Tương vấn Hán
Trọng Tương vấn Hán (仲襄問漢) là tác phẩm văn học khuyết danh tác giả, kể theo thuyết tiền căn báo hậu kiếp hay luân hồi quả báo từ thời Hán Sở tranh hùng cho đến thời Tam Quốc.
Tác giả xây dựng nội dung để hàng loạt nhân vật thời Hán Sở tái sinh, trong đó Tây Sở bá vương Hạng Vũ đầu thai làm Quan Vũ; Hạng Bá và Ung Sĩ từng phản Hạng Vũ phải đầu thai làm Văn Sú và Nhan Lương để Quan Vũ sát hại trong trận Bạch Mã - Diên Tân; các viên tướng tranh giành xé xác Hạng Vũ để lĩnh tước hầu của Lưu Bang đầu thai làm các tướng giữ cửa 5 ải và bị Quan Vũ giết chết trên đường tìm Lưu Bị.
Hình ảnh chuyển thể
Hình ảnh Quan Vũ được chuyển thể lên màn ảnh thông qua các bộ phim truyền hình và điện ảnh, tính đến nay hình ảnh Quan Vũ đã được tái hiện qua nhiều diễn viên khác nhau ở các bộ phim khác nhau như:
Bá Lâm trong phim Xích Bích
Vu Vinh Quang trong phim Phim 2010
Lục Thụ Minh trong phim Phim năm 1994
Địch Long trong phim Tam quốc chí: Rồng tái sinh
Câu Phong trong phim "Tam quốc anh hùng truyện" hay Quan Công (Kwan kung) của Hồng Kông
Vương Vệ Quốc
Vương Anh Ban (Wang Yingquan) trong "Quan Công" hay Truyền thuyết Quan Công (2004)
Trương Sơn
Trần Tử Thành (trong vai Quan Vũ thời trẻ)
Doãn Dương Tuấn trong phim "Thần y Hoa Đà"
Ngô Mạnh Đạt trong phim "Lộc đỉnh ký"
Huỳnh Thu Sinh
Dương Phàm trong phim "Tào Tháo"
Đỗ Văn Trạch trong phim "Thiết kim cang"
Chung Tử Đơn trong phim "Quan Vân Trường" phiên bản mới nhất.
Danh hiệu, tôn thờ
Tại Trung Quốc: Danh hiệu
Quan Vũ được thờ phụng ở nhiều nơi, tôn lên nhiều danh hiệu cao quý.
Sau khi mất, ông được truy tặng chức Tráng Mậu hầu. Thời nhà Tống, Tống Huy Tông truy tôn ông là Trung Huệ Công; Tống Cao Tông tôn ông làm Tráng Mậu Vũ An vương. Đến thờiMinh Thần Tông, ông được tôn làm Quan Đế. Vua nhà Minh coi ông là vị thần hộ quốc.
Đời Thanh, Càn Long tôn ông làm Trung Nghĩa Vũ Thần đại đế. Năm 1856, người ta cho rằng ông đã hiển linh giúp quân Thanh thắng giặc nên binh lính nhà Thanh thường treo ảnh ông trong doanh trại và đeo tượng ông, coi như bùa hộ mệnh. Cũng vì sự việc này, vua Hàm Phong đã tôn ông lên ngang hàng với Khổng Tử, gọi là Quan Phu Tử. Ông là người thứ hai sau Khổng Tử được tôn xưng là Phu Tử.
Tôn thờ
Tào Tháo được xem là người đầu tiên dựng am thờ Quan Vũ, ngay tại quận Tiêu nước Bái quê mình - am Linh Thố
Sau đó nhiều nơi ở Trung Quốc đã lập đền thờ Quan Vũ. Do ảnh hưởng từ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, hình tượng ông càng trở nên thần thánh trong sự ngưỡng mộ của nhân dân. Năm 1914 thời Trung Hoa Dân Quốc, Quan Vũ được thờ chung với Nhạc Phi tại Võ miếu. Tại huyện Thái Hưng tỉnh Giang Tô, ông được thờ cùng Nhạc Phi và Văn Thiên Tường.
Việc thờ Quan Vũ có ảnh hưởng sâu rộng trong dân gian. Ông được nhân dân thờ như Thần độ mạng; giới thương nhân coi ông như thần tài; giới nho sĩ coi ông như thần văn học (tượng Quan Vũ trên 1 tay có cầm Kinh Xuân Thu); giới quân sự coi ông như vị thần bảo vệ bản mệnh. Người ta giải thích rằng sở dĩ ông có cả ảnh hưởng tới giới thương nhân vì hồi còn hàn vi ông từng làm nghề bán đậu phụ. Các đao phủ thường giấu đao trong đền thờ ông vì họ cho rằng uy linh của ông sẽ ngăn trở oan hồn về báo oán.
Tại Việt Nam
Việc thờ Quan Vũ ở Việt Nam có từ nhiều thế kỷ, từ Bắc đến Nam. Người Việt Nam thờ ông trong nhiều chùa, thờ chung với Phật. Người Việt gọi là Hán Thọ Đình Hầu - hay phổ biến là Quan Thánh Đế Quân. Trong dân gian tôn là thần Trung Nghĩa. Bàn thờ thường đặt trong điện Quan Đế.
Một số nơi thờ Quan Thánh ở Việt Nam:
Chùa ông ,Tp Nha trang, đường 23-10
Đền Ngọc Sơn hồ Hoàn Kiếm trước đây từng là nơi thờ Quan Thánh.
Đền Quan Công ở bến Tây Luông, cách cổng thành Thăng Long 2 dặm.
Miếu Quan Đế do Bỉnh Trung Công thời Hậu Lê xây dựng ở phường Hà Khẩu, nay là phố Nguyễn Trung Trực, Hà Nội.
Miếu Quan Thánh ở xã Năng Tịnh, huyện Mỹ Lộc, Nam Định.
Đền Quan Đế ở xã đông lĩnh, huyện đông Sơn, Thanh Hóa.
Đền Quan Thánh ở phố Bắc Hà, huyện Kim Động, Hưng Yên
Miếu Quan Công do người Hoa xây dựng ở huyện Phong Thổ, Lai Châu.
Miếu Quan Đế ở xã Nước Hai, huyện Hòa An, Cao Bằng.
Đền Quan Công tại cạnh chùa Thiên Mụ ở Huế.
Chùa Quốc Ân tại Cố đô Huế
Đền Quan Công ở Hội An, Quảng Nam.
Quan Thánh tự ở Thu Xà, Nghĩa Hòa, Tư Nghĩa, Quảng Ngãi
Quảng Đông tỉnh hội quán ở Long Xuyên, An Giang
Miếu Quan Đế (Chùa Ông) của người Hoa, Phan Thiết, Bình Thuận.
Đại Giác cổ tự ở Biên Hòa, Đồng Nai
Đền Quan Công tại huyện Tuy Phong, Bình Thuận
Chùa Quan Đế ở Bình Tây, Chợ Lớn, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đền thờ Quan Thánh tại Thành phố Vũng Tàu.
Đền Võ Miếu tại phường Tân Giang, thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh
Chùa Quan Đế của người Hoa tại Mỹ Tho, Tiền Giang
Thất Phủ Miếu (Chùa Ông) của người Hoa tại phường 5, thành phố Vĩnh Long, Vĩnh Long.
Những người theo đạo Hòa Hảo làm lễ Quan Thánh vào ngày 24 tháng 6 âm lịch
Tranh và tượng
Quan Vũ được dân gian tạc tượng và vẽ tranh rất nhiều, theo mô phỏng sự mô tả của Kinh Minh thánh: mày tằm hình chữ bát, mắt phượng sáng như sao, râu rồng rõ năm chòm, trán hùm thân lẫm liệt.
Thông dụng hơn cả trong tranh, tượng dân gian là hai kiểu: tượng ba ông và tượng năm ông.
Tượng ba ông gồm có Quan Công mặc giáp phục ngồi giữa hổ trướng, tay vuốt râu, tay kia cầm Kinh Xuân Thu; sau lưng hai bên có Quan Bình đứng bên trái giữ ấn, Châu Thương đứng bên phải giữ thanh long đao.
Tượng năm ông tương tự như tượng ba ông, nhưng có vẽ thêm Trương Tiên cầm cung và Vương Thiên Quân cầm giản đứng hầu.
Câu đối
Tại những thờ Quan Vũ có rất nhiều câu đối ca ngợi sự nghiệp và đức độ của ông. Những câu đối nổi tiếng nhất về Quan Vũ được ghi nhận là:Xích diện bỉnh xích tâm, kỵ Xích thố truy phong, trì khu thời, vô vong Xích đếThanh đăng quang thanh sử, trượng thanh long yển nguyệt, ẩn vi xứ, bất quý thanh thiên
Dịch nghĩa:Mặt đỏ lòng son, cưỡi Xích thố như gió, khi rong ruổi không quên vua Đỏ.Đèn xanh xem sử xanh, nương thanh long yển nguyệt, chốn ẩn vi chẳng thẹn với trời xanhSinh Bồ châu, sự Dự châu, chiến Kinh châu, thủ Từ châu, vạn cổ thần châu hữu nhấtHuynh Huyền Đức, đệ Dực Đức, cầm Bàng Đức, phóng Mạnh Đức, thiên thu chánh đức vô song
Dịch nghĩa:Sinh ở Bồ châu, làm việc tại Dự châu (cùng Lưu Bị), chiến Kinh châu, thủ Từ châu, trước giờ chỉ có duy nhất ở Thần châu, Anh là Huyền Đức, em là Dực Đức, bắt giữ Bàng Đức, tha Mạnh Đức , ngàn thu đức lớn không ai sánh bằngTRƯƠNG PHITrương Phi (chữ Hán: 張飛; 163 - 221) là danh tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
V. TRƯƠNG PHI
Trương Phi tự là Ích Đức, hay thường được gọi là Dực Đức, người Trác Quận (nay là Trác Châu, địa cấp thị Bảo Định, tỉnh Hà Bắc).
Ông sinh trưởng trong một gia đình giàu có, thân hình to lớn, dung mạo oai phong, được học hành cả võ nghệ lẫn sách vở. Trương Phi viết chữ rất đẹp và là một họa sĩ, ông có sở trường vẽ tranh mỹ nhân.
Theo Lưu Bị khởi nghiệp
Khi còn trẻ, Trương Phi đã gặp gỡ và kết giao với Lưu Bị và Quan Vũ. Ba người rất thân thiết với nhau, coi nhau như anh em một nhà.
Năm 184, Lưu Bị khởi binh giúp nhà Hán chống quân khởi nghĩa Khăn Vàng, Trương Phi và Quan Vũ theo giúp sức. Nhờ lập công, Lưu Bị được phong làm Huyện úy An Hỷ. Được một thời gian, Lưu Bị bỏ chức Huyện úy vì đánh viên Đốc bưu của triều đình đến hạch sách, Trương Phi theo đi.Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng người đánh viên Đốc bưu là Trương Phi khi ông nóng giận, nhưng trong thực tế chính Lưu Bị làm việc này rồi bỏ ấn từ quan.
Trương Phi theo phò tá Lưu Bị đến huyện Hạ Mậtlàm Huyện thừa (Phó huyện trưởng) theo sự tiến cử của Vô Kỳ Nghị, rồi huyện úy Cao Đường
Ít lâu sau, anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi giao tranh với quân cướp địa phương bị bại trận, bèn bỏ huyện Cao Đường đến nương nhờ sứ quân Công Tôn Toản ở U châu. Sau đó Trương Phi lại theo Lưu Bị đến Thanh châu giúp Điền Khải chống Viên Thiệu, đóng quân ở Bình Nguyên.
Lưu Bị được phong làm tướng quốc Bình Nguyên, bèn phong cho Trương Phi làm Biệt bộ tư mã, thống lĩnh quân đội.
Năm 193, ông lại theo Lưu Bị đi cứu Đào Khiêm ở Từ châu bị Tào Tháo vây đánh, giúp Đào Khiêm giữ được thành Đan Dương. Không lâu sau khi quân Tào rút đi (để về chiếm lại Duyện châu từ tay Lã Bố), Đào Khiêm qua đời, trước khi mất tiến cử Lưu Bị làm Châu mục Từ châu.
Để mất Từ châu
Năm 195, Lã Bố thất bại trong cuộc giao tranh với Tào Tháo ở Duyện châu, đến nương nhờ Lưu Bị. Quân phiệt Viên Thuật ở Thọ Xuân (Dương châu) tấn công Lưu Bị để tranh đoạt Từ châu. Lưu Bị mang quân đi Vu Thai kháng cự Viên Thuật, sai Trương Phi giữ thành Hạ Bì (thủ phủ Từ châu). Trương Phi bất hòa với viên tướng cũ của Đào Khiêm là Tào Báo, bèn giết chết Tào Báo.
Viên Thuật viết thư cho Lã Bố đề nghị đánh úp Từ châu, đổi lại Thuật sẽ giúp lương. Lã Bố nhận lời, nhân lúc Hạ Bì hỗn loạn do cái chết của Tào Báo, bèn mang quân đến đánh úp Hạ Bì. Viên Trung lang tướng Hứa Đam trong thành Hạ Bì phản lại Trương Phi, mở cửa đón Lã Bố. Trương Phi không chống nổi quân Lã Bố, mang thủ hạ bỏ chạy, không kịp mang theo gia quyến Lưu Bị.
Trương Phi chạy đến chỗ Lưu Bị ở Hoài Âm. Do tình thế bức bách, lực lượng yếu không kháng cự được Viên Thuật và Lã Bố, ba anh em Lưu Bị phải quay về Từ châu hàng Lã Bố. Lã Bố tiến cử Lưu Bị làm Dự châu mục, sang đóng ở thành Tiểu Bái gần đó.
Tan rã và tái ngộ
Anh em Lưu Bị phát triển thế lực ở Tiểu Bái khiến Lã Bố lo ngại. Lã Bố bèn mang quân tới đánh. Anh em Lưu Bị thua chạy, đến nương nhờ Tào Tháo. Năm 198, Tào Tháo liên hợp với Lưu Bị khởi đại binh đánh Từ châu, hạ thành Hạ Bì, giết chết Lã Bố. Sau đó ông theo Lưu Bị về Hứa Xương, được Tào Tháo phong làm Trung lang tướng.
Năm 199, ông theo Lưu Bị rời Hứa Xương tới Từ châu, ly khai Tào Tháo. Tào Tháo mang quân đánh Từ châu. Ba anh em Trương Phi xung trận thất bại, bị lạc mỗi người một nơi: Lưu Bị chạy sang Hà Bắc theo Viên Thiệu, Quan Vũ phải hàng Tào, còn Trương Phi cầm một cánh quân chạy tới tận Cổ Thành thuộc huyện Chân Dương, quận Nhữ Nam. Tại đây Trương Phi gặp tướng quân Khăn Vàng là Lưu Tiết, bèn hợp quân với nhau làm một cùng nương tựa.
Năm 200, Lưu Bị cùng Triệu Vân rời khỏi chỗ Viên Thiệu về Cổ Thành, Nhữ Nam hội với Trương Phi và Lưu Tiết; Quan Vũ cũng đến hội. Cuối năm đó, do giao tranh với Tào Tháo bất lợi, Trương Phi theo Lưu Bị chạy về Kinh châu nương nhờ Lưu Biểu. Ông cùng Lưu Bị đóng đồn ở Tân Dã thuộc quận Nam Dương.
Hoạt động ở Kinh châu
Năm 208, Tào Tháo sau khi tiêu diệt họ Viên làm chủ miền bắc, phát đại quân tấn công Kinh châu. Con Lưu Biểu (mới mất) là Lưu Tông đầu hàng. Lưu Bị không chống nổi Tào Tháo, mang dân vượt sông. Tào Tháo mang quân thiết kỵ truy kích, đuổi kịp Lưu Bị ở Đương Dương Tràng Bản.
Lưu Bị không kịp chống đỡ, bỏ cả gia quyến chạy, quân bị thua tan tác. Trương Phi theo lệnh Lưu Bị mang 20 kỵ binh đi chặn hậu, ngăn cản quân Tào. Ông đợi Lưu Bị cùng những người đi kịp sang sông rồi đứng lên chặn ở đầu cầu Tràng Bản.
Quân Tào truy kích đuổi đến nơi. Một mình Trương Phi hùng dũng đứng trên cầu cầm xà mâu, không ai trong quân Tào dám tiến lên giao phong. Nhờ đó Lưu Bị cùng các thủ hạ chạy thoát.
Sau trận Xích Bích, Trương Phi giúp Lưu Bị chinh chiến giành quyền kiểm soát phần lớn Kinh châu. Lưu Bị cắt mấy huyện thuộc Nam quận ra thành lập quận Nghi Đô, phong Trương Phi làm Chinh lỗ tướng quân, Thái thú Nghi Đô.
Năm 211, Lưu Bị mang quân vào đánh Ích châu của Lưu Chương. Trương Phi cùng Quan Vũ, Triệu Vân và Gia Cát Lượng trấn giữ Kinh châu.
Tôn Quyền nghe tin Lưu Bị đi vắng, bèn phái một đội thuyền đến Kinh châu đón em gái (vợ mới của Lưu Bị) về. Tôn phu nhân muốn mang theo con Lưu Bị là Lưu Thiện lúc đó mới 7 tuổi, về theo. Trương Phi và Triệu Vân nghe tin, vội mang quân ra chặn sông, khuyên Tôn phu nhân ở lại nhưng Tôn phu nhân không nghe. Hai tướng đành để Tôn phu nhân đi, nhưng buộc phu nhân để lại A Đẩu.
Tiến vào Ích châu
Năm 214, do giao tranh tại Ích châu chưa giành được thắng lợi, Lưu Bị triệu tập thêm các tướng ở Kinh châu tham chiến. Trương Phi cùng Triệu Vân và Gia Cát Lượng mang quân vào Tây Xuyên trợ chiến, để Quan Vũ ở lại trấn thủ Kinh châu.Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng lúc đó Gia Cát Lượng thống lĩnh Trương Phi và Triệu Vân mang cánh quân vào Tây Xuyên. Các sử gia đính chính rằng: thực tế là Trương Phi và Triệu Vân theo lệnh của Lưu Bị mang theo Gia Cát Lượng cùng đi, vì lúc đó chức vụ của Trương Phi (Chinh lỗ tướng quân) cao nhất, sau đó đến Triệu Vân (Nha môn tướng quân), rồi mới đến Gia Cát Lượng (Quân sư trung lang tướng, chức “trung lang tướng” còn kém “tướng quân” một cấp). Các sử gia còn bàn rộng hơn rằng, lúc đó Trương Phi ngoài chức tướng quân, ông còn có tước đình hầu, như vậy đã có thể xưng “Cô” như Tào Tháo và Tôn Quyền.
Cánh quân của Trương Phi, Triệu Vân và Khổng Minh rầm rộ tiến vào bình định các quận huyện. Trương Phi đánh Ba quận, Gia Cát Lượng đánh Ba Đông, Triệu Vân đánh Giang Dương và quận Kiện Vi. Trương Phi đụng thái thú Ba quận là Nghiêm Nhan. Nghiêm Nhan trí dũng song toàn, dựa vào thành trì ở vùng núi hiểm trở nên không quy phục. Trương Phi dùng mưu kế đánh bại và bắt sống Nghiêm Nhan. Trước sự khẳng khái của Nghiêm Nhan, ông cởi trói, trọng đãi Nghiêm Nhan, dụ được Nghiêm Nhan đầu hàng.Tam Quốc diễn nghĩa mô tả trận này Trương Phi dùng kế lừa Nghiêm Nhan đi ra khỏi thành để vây bắt Nghiêm Nhan
Sau đó Trương Phi cùng Gia Cát Lượng đi theo đường phía bắc, còn Triệu Vân cầm cánh quân đi theo đường phía nam, cùng hội ở Lạc Thành. Các sử gia xác định ông đi theo lối Bồi Giang lên phía tây bắc qua Hợp Xuyên, Toại Ninh, Tam Đài. Ông được Nghiêm Nhan hỗ trợ dụ hàng các vùng Ba Tây, Đức Dương. Lưu Chương sai lão tướng Trương Duệ mang quân ra kháng cự, bị Trương Phi đánh tanTrương Duệ mang tàn quân chạy về Thành Đô. Trương Phi chuyển qua hướng tây để hợp binh với Lưu Bị và Triệu Vân đánh Lạc Thành rồi tấn công vào Thành Đô.
Lưu Chương đầu hàng. Lưu Bị chiếm được Tây Xuyên, bổ nhiệm Trương Phi làm Thái thú Ba Tây.
Đánh bại Trương Cáp
Năm 215, Tào Tháo đánh bại Trương Lỗ, chiếm cứ Hán Trung rồi để lại Hạ Hầu Uyên và Trương Cáp trấn giữ. Trương Cáp mang quân xuống phía nam tiến vào Ba Tây để bắt dân mang về. Trương Phi mang quân ra kháng cự. Hai bên gặp nhau ở Đãng Cừ, Mông Đầu, cầm cự 50 ngày không phân thắng bại. Trương Phi tự mình mang hơn 1 vạn quân ra đường khác chặn đánh Trương Cáp. Trương Cáp gặp đường núi khó di chuyển nên bị Trương Phi đánh bại, phải bỏ ngựa dẫn tàn quân men theo đường nhỏ dốc đứng trốn thoát về Nam Trịnh.Tam Quốc diễn nghĩa mô tả trận này Trương Phi sai người tung tin ông say rượu trong trướng, để hình người nộm để dụ Trương Cáp vào cướp trại rồi đổ phục binh đánh bại Trương Cáp
Trương Phi thắng trận, cho dựng một tấm bia trên sườn núi Đãng Cừ, tự tay viết văn bia, lời lẽ rất hùng tráng:"Tướng quân nhà Hán là Phi, suất lãnh một vạn tinh binh đại phá đầu sỏ của giặc là Trương Cáp ở Đãng Cừ, dừng ngựa dựng bia"
Năm 219, Lưu Bị chiếm được Hán Trung, tự xưng là Hán Trung vương, bổ nhiệm Trương Phi là Hữu tướng quân.
Bị giết
Cùng năm 219, anh kết nghĩa của Trương Phi là Quan Vũ bị liên minh Ngô-Ngụy giáp binh đánh bại và bị giết.
Năm 221, Lưu Bị lên ngôi hoàng đế, Trương Phi được phong làm Xa kị tướng quân kiêm Tư Lệ hiệu úy, Tây Hương hầu. Lưu Bị khởi binh đi đánh Đông Ngô báo thù cho Quan Vũ, sai Trương Phi cầm quân bản bộ xuất phát từ Lãng Trung đến Giang châu hội binh với Lưu Bị.
Khi đang chuẩn bị tấn công Đông Ngô, Trương Phi bị 2 tuỳ tướng của mình là Trương Đạt và Phạm Cường sát hại. Trương Đạt và Phạm Cương sau đó trốn sang Đông Ngô.Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Trương Phi bắt hai tướng Trương Đạt và Phạm Cương phải gấp rút may đủ áo giáp trắng để tang Quan Vũ trong thời gian ngắn và đánh đập họ khi họ kêu khó hoàn thành nhiệm vụ.
Lưu Bị truy tặng thụy hiệu cho Trương Phi là Hoàn hầu.
Gia đình
Vợ: Trương Phi lấy Hạ Hầu thị, cháu gọi Hạ Hầu Uyên bằng bác, em họ của Hạ Hầu Bá. Cha mẹ Hạ Hầu thị mất sớm, được Hạ Hầu Uyên nuôi dưỡng và coi như con gái. Năm Kiến An thứ 5 (200), khi khoảng 13-14 tuổi, Hạ Hầu thị ra ngoài kiếm củi thì bị quân của Trương Phi bắt được. Họ có 2 con trai và 2 con gái.
Con cái
Trương Bào, mất sớm. Tam Quốc diễn nghĩa kể Trương Bào là một viên tướng nối nghiệp cha, theo Lưu Bị đi đánh Đông Ngô rồi lại theo Gia Cát Lượng bình định Nam Trung và đánh Tào Ngụy.
Trương Thiệu. Làm quan tới thị trung thượng thư bộc xạ.
Kính Ai hoàng hậu Trương thị (?-237). Lấy thái tử Lưu Thiện vào năm Chương Vũ thứ 1 (221), tới năm Kiến Hưng thứ 1 (223) được lập làm Kính Ai hoàng hậu của Thục Hán. Mất năm Kiến Hưng thứ 15 (237)
Trương hoàng hậu, vợ Lưu Thiện. Nhập cung làm quý nhân sau khi Kính Ai hoàng hậu mất. Tháng 1 năm Diên Hi thứ 1 (238) được lập làm hoàng hậu. Sau khi Thục Hán diệt vong năm 263 thì theo Lưu Thiện tới Lạc Dương
Cháu
Trương Tuân, con Trương Bào, làm quan tới thượng thư. Từng theo Gia Cát Chiêm tới phòng thủ tại Miên Trúc, cùng Đặng Ngải giao chiến và chết tại trận.
Nhận định: Trần Thọ, tác giả sách Tam Quốc chí có đánh giá về ông cũng được đời sau ghi nhận là công bằng:Trương Phi... sức địch vạn người, hổ thần một thời. Phi vì nghĩa thả Nghiêm Nhan... có phong độ quốc sĩ. Nhưng... Phi bạo mà vô ơn, lấy sở đoản chuốc lấy thất bại, là lẽ thường vậy.
Trong nghệ thuật
Hình ảnh Trương Phi trong dân gian có ảnh hưởng khá sâu đậm, là một trong những danh tướng được dân chúng truyền tụng và yêu mến.
Tam Quốc diễn nghĩa
Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Trương Phi được mô tả "cao tám thước, đầu báo, mắt tròn, râu hùm, hàm én". Trương Phi đã cùng với Lưu Bị và Quan Vũkết bái làm huynh đệ trong vườn đào. Ông là em út trong ba người. Ông được Chiêu liệt hoàng đế tức Lưu Bị phong làm một trong ngũ hổ đại tướng.
Ông là một người rất khẳng khái, bộc trực và rất nóng nảy. Ông đã đóng góp rất nhiều cho sự ra đời của nước Thục. Ông nổi tiếng với võ nghệ siêu phàm cùng với sự dũng cảm coi thường cái chết. Ông thật sự là nỗi khiếp đảm của quân thù. Như trận đánh cầu Trường Bản, ông đã quát mấy tiếng khiến Tào Tháo hoảng sợ mà lui quân. Khi ấy ông chỉ có vài mươi kị sĩ còn Tào Tháo có trăm vạn hùng binh. Trong trận ấy, viên quan theo hầu Tào Tháo là Hạ Hầu Kiệt đã hoảng sợ đến mức vỡ mật mà chết.
Ngoài ra, ông là một trong 2 tướng đã từng đơn độc giao chiến với Lã Bố mà chưa bị thua chạy hoặc bị giết (người còn lại là Hứa Chử). Trong trận Hổ Lao, để cứu Công Tôn Toản, ông đã đấu với Lã Bố hơn 50 hiệp bất phân thắng bại trước khi Quan Vũ và Lưu Bị ra trợ chiến. Tổng cộng ông đã đấu với Lã Bố 2 trận, tất cả gần 150 hiệp và đều bất phân thắng bại (trong khi Hứa Chử chỉ giao chiến với Lã Bố được 20 hiệp bất phân thắng bại trước khi Tào Tháo sai 5 tướng khác ra trợ chiến)
Cũng chính vì tính nóng nảy của mình mà ông đã chuốc họa sát thân. Do nôn nóng báo thù cho anh là Quan Vũ bị quân Đông Ngô hại nên ông thường đánh đập quân sĩ. Trong đó có hai tên hạ quan dưới trướng là Trương Đạt và Phạm Cương, họ âm thầm sát hại ông vì lo sợ bị ông chém đầu vì không hoàn thành quân lệnh ông giao là phải lo quân trang cờ xí màu trắng cho toàn quân của ông mặc để tang anh là Quan Vũ trong cuộc tấn công báo thù quân Đông Ngô. Đêm đó ông say rượu ngủ và bị đâm chết
VI. KHƯƠNG DUY

Khương Duy (姜維, Wade-Giles: Chiang Wei, 204-264), là một tướng và sau này là thừa tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Khương Duy tự là Bá Ước (伯約), người huyện Ký, Thiên Thuỷ.
Cha ông là Khương Quýnh từng làm chức Công tào trong quận. Khi người Nhung và người Khương chống lại nhà Ngụy, Khương Quýnh bảo vệ cho thái thú và bị tử trận. Vì vậy nhà Ngụy phong cho ông làm chức Trung lang.
Cha mất sớm, Khương Duy sống với mẹ, say mê Kinh học của Trịnh Huyền, làm chức Thượng kê duyên (ghi chép) trong quận, sau đó ông được làm tùng sự.
Hàng Thục
Năm 228, Thừa tướng nhà Thục Hán là Gia Cát Lượng xuất quân bắc phạt, ra Kỳ Sơn lần thứ nhất. Thái thú Thiên Thuỷ là Mã Tuân dẫn ông cùng Lương Tự, Doãn Thưởng, Lương Kiều và thứ sử Ung châu là Quách Hoài đi tuần các nơi.
Nghe tin quân Thục đến Kỳ Sơn, Quách Hoài trở về Thượng Khuê phòng bị. Mã Tuân một mình ở lại Ký huyện xa xôi phía tây, thế cô, có ý lo sợ. Khương Duy khuyên Tuân về phòng thủ Ký huyện nhưng Tuân không nghe và có ý nghi ngờ Khương Duy, nói rằng:Bọn các ngươi đều không đáng tin cậy!
Rồi Tuân nhân đêm tối bỏ chạy về Thượng Khuê với Quách Hoài. Khương Duy sau mới phát hiện ra, bèn chạy theo, nhưng đến nơi thì thành Thượng Khuê đóng cửa, không cho ông vào. Ông quay trở về Ký huyện thì Ký huyện cũng đóng cửa ngăn ông. Ông bèn chạy sang đầu hàng Gia Cát Lượng.
Thấy ông lại hàng, Gia Cát Lượng rất mừng. Nhưng sau đó Mã Tốc để mất Nhai Đình nên quân Thục phải triệt thoái. Khương Duy theo quân Thục về nước và lạc mất mẹ.
Gia Cát mến tài ông, phong làm Thương tào duyện, Phụng Nghĩa tướng quân, rồi Đan Dương đình hầu khi ông mới 27 tuổi (230). Trong thư gửi Trương Duệ, Gia Cát khen ngợi tài năng của ông:”Khương Bá Ước là người trung thành, cần cù, suy nghĩ chín chắn… Người này đích thực là nhân vật xuất chúng về quân sự... Cái quý nhất là trong lòng anh ta vẫn còn nhà Hán...”
Trong thời gian Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn đánh Tào Ngụy những lần sau đó, Khương Duy đều tham gia chiến trận.
Đánh Ngụy: Năm 234, Gia Cát Lượng mất. Khương Duy được giao trọng trách giữ việc quân sự. Ông trở về Thành Đô nhận chức Tả giám quân, Phù Hán tướng quân, Bình Tương hầu. Trên thực tế, ông vẫn ở dưới quyền Tưởng Uyển.
Năm 238, Uyển được phong làm Đại tư mã thì Khương Duy được phong làm Tư mã.
Năm 243, ông lại được phong làm Trấn tây đại tướng quân, kiêm nhiệm thứ sử Kinh châu.
Lần thứ nhất
Năm 247, sau khi Tưởng Uyển mất, Phí Vĩ lên làm Thừa tướng, ông được phong làm Vệ tướng quân.
Năm đó các tộc thiểu số ở Vấn Sơn và huyện Bình Khang nổi dậy, ông thống lĩnh quân mã đi đánh dẹp, bình định hai vùng. Cùng năm, ông mang quân giao chiến với các tướng Nguỵ là Quách Hoài và Trần Thái . Tuy nhiên , ông bị bại trận tại núi Ngưu Đầu và bị thiệt vài vạn quân
Lần thứ hai
Năm diên Hi thứ sáu nhà Thục , nhân lúc quân Đông Ngô thắng trận . Khương Duy cất quân đến Nam An . Ông đã dùng mưu chém được Từ Chất , vây khốn Tư Mã Chiêu trên núi Thiết Lung , nhưng bị quân Nguỵ trà trộn vào quân Khương đón đánh nên bại trận
Lần thứ ba
Năm 253, Phí Vĩ mất, Khương Duy lên nắm quyền. Ông dẫn quân ra đường Bào Hãn , đối đầu với thứ sử Ung Châu là Vương Kinh . Tại đây , ông đã dùng mẹo dử quân Nguỵ đến gần sông Thao thuỷ rồi quay binh đánh vật lại , giết hơn một vạn quân . Trên đà thắng lợi , Khương Duy tiến đến đồ thành Địch Đạo , nhưng không thành công . Sau đó tướng Ngụy là Trần Thái cùng thứ sử Duyện Châu là Đặng Ngải đến giải vây, ông bị hết lương phải rút quân về
Lần thứ tư
Năm 256, Khương Duy được Lưu Thiện phong làm Đại tướng. Ông chỉnh đốn binh mã, ước định ngày giờ hội quân với Hồ Tế ở Thượng Khuê nhưng Hồ Tế không đến. Khương Duy giao chiến với Đặng Ngải ở Đoạn Cốc, quân Thục bị đánh bại, thương vong khá nhiều. Vì vậy dân chúng oán hận ông, các địa phương Lũng Tây cũng nhân đó nổi loạn.
Khương Duy dẫn quân về, xin chịu tội, tự giáng chức Thừa tướng như Gia Cát Lượng từng làm khi mất Nhai Đình trước kia để lập công chuộc tội. Lưu Thiện chuẩn y giáng ông làm Hậu tướng quân, lo việc Đại tướng quân.
Lần thứ năm
Năm 257, tướng Ngụy là Gia Cát Đản phản đối quyền thần Tư Mã Chiêu, làm phản ở Hoài Nam. Khương Duy nhân cơ hội đó mang quân đánh Ngụy, từ lạc Cốc đến Đạt Thẩm Lĩnh. Lúc đó ở Trường Thành của nước Ngụy có nhiều lương thảo nhưng ít quân bảo vệ. Nghe tin ông tiến đến, quân Ngụy bỏ chạy.
Tướng Ngụy là Tư Mã Vọng mang quân đến giao chiến, Đặng Ngải cũng xuất quân từ Lũng Hữu đến Trường Thành. Khương Duy thúc quân tiến đánh. Ông dựa vào sườn núi cắm trại. Tư Mã Vọng và Đặng Ngải cố thủ ở sông Vị Thuỷ, dù ông khiêu chiến nhiều lần nhưng quân Ngụy không ra.
Sang năm 258, có tin Gia Cát Đản đã thất bại truyền tới mà quân Ngụy vẫn phòng thủ vững, ông rút quân về Thành Đô, được phục chức Đại tướng quân
Lần thứ sáu
Năm Cảnh Diệu Thứ Nhất . Khương Duy kéo quân ra Kỳ Sơn hạ trại . Ông đã liên tục giao đấu và đánh thăng Đặng Ngải nhiều trận . Đặng Ngải chỉ còn cách sai người vào Thành Đô kết liên với Hoàng Hạo , phao tin đồn rằng Khương Duy có bụng tạo phản . Cho nên Hậu chủ Lưu Thiền liền giáng chiếu triệu Khương Duy trở về
Lần thứ bảy
Nhân dịp Tư Mã Chiêu giết nguỵ chủ Tào Mao , Khương Duy cất Mười lăm vạn quân chia làm ba đường . Trương Dực đi ra Lạc Cốc , Liêu Hoá đi lối ra hang Tí Ngọ . Duy ra hang Tà Cốc Ba mặt cung kéo đến Kỳ Sơn Đặng Ngải liền sai Vương Quán giả làm cháu Vương Kinh ( Vương Kinh bị giết bởi Tư Mã Chiêu ) đến hàng Khương Duy với mục đích làm nội ứng . Tuy nhiên , mưu kế này nhanh chóng bị phát giác . Khương Duy năm rõ giờ giấc liền đổi ngày hẹn rồi đem quân phục sẵn trong hang Đàm Sơn vây đánh Đặng Ngải. Đặng Ngải bị đánh bại , thiệt hại nhiều quân , chuyến này Khương Duy tuy thắng nhưng bị phá mất lương thảo đường sàn do Vương Quán liều chết đốt bỏ . Cho nên ông đành phải rút quân về để đón đánh và giết chết Vương Quán
Lần thứ tám
Khương Duy nghiên cứu địa thế nước Thục, đề ra sách lược mới là “liễm binh tụ cốc” (thu quân tập hợp lương thảo), tức là phòng thủ, thu hết lương thảo vào Hán Thành và Lạc Thành khiến quân địch không có lương, nhân thời cơ quân địch vào sâu nội địa để tập kích, quấy rối. Khi quân địch đi xa thiếu lương sẽ nguy cấp và quân Thục sẽ đồng thời phản công.
Năm 262, Khương Duy mang quân ra khỏi Hán Thành đánh Ngụy, bị Đặng Ngải đánh bại, phải lui quân về Đạp Trung.
Khi đó trong triều đình, Hậu chủ Lưu Thiện tin dùng hoạn quan Hoàng Hạo, bỏ việc chính sự. Khương Duy rất bất mãn, muốn xin Lưu Thiện giết Hạo không được. Lưu Thiện lại nói việc đó với Hạo và bắt Hạo xin lỗi ông. Ông lo rằng Hạo sẽ trả thù, nên xin ra trồng lúa ở Đạp Trung.
Tận trung với Thục Hán
Lần thứ 9 Khương Duy đương đầu với quân Ngụy không phải là đánh vào đất Ngụy mà ông chống cuộc tây tiến của quân Ngụy. Đây cũng là cuộc chiến cuối cùng của Khương Duy.
Chống Chung Hội
Năm 263, quyền thần Tư Mã Chiêu sau khi dẹp bỏ hầu hết các lực lượng chống đối bèn tính việc đánh Thục, sai Chung Hội và Đặng Ngải chia đường tây tiến.
Khương Duy ở Đạp Trung được tin, bèn viết biểu về triều, đề nghị Lưu Thiện điều động Trương Dực, Liêu Hóa bảo vệ Dương An và Âm Bình. Nhưng Lưu Thiện tin theo Hoàng Hạo, không nghe theo những tờ thư của ông, nên quân Thục không được điều động đi phòng thủ.
Đến khi Đặng Ngải sắp kéo đến Đạp Trung, Chung Hội sắp tiến vào Lạc Cốc, triều đình Thục Hán mới cho Trương Dực, Đổng Quyết dẫn quân tới Dương An lập trại tiếp ứng.
Liêu Hóa tiến đến Âm Bình, nghe tin tướng Ngụy là Gia Cát Tự đến Đình Uy, nên dừng lại chờ đón đánh.
Khương Duy nghe tin 2 cánh đại quân Chung Hội, Đặng Ngải tiến vào, bèn lui về phía đông, trên đường rút lui ông bị Đặng Ngải truy kích. Lúc đó Gia Cát Tự cũng chiếm được Vũ Đô, đến gần Âm Bình, cắt đường rút lui của ông. Ông bị dồn vào Khổng U Cốc. Ông dùng mưu lừa Gia Cát Tự, đốt đầu phía bắc cầu Âm Bình, Tự vội chạy qua phía bắc để chặn, ông bèn mau chóng qua cầu mà sang.
Khương Duy gặp viện binh của Liêu Hóa. Ông lệnh cho Liêu Hóa ở lại Âm Bình chống quân Ngụy, còn mình mang quân ra đánh Chung Hội.
Hội tấn công dữ dội vào Hán Trung và Lạc Thành. Tướng giữ ải Dương Quan là Tưởng Thư đầu hàng, để mặc phó tướng Phó Thiêm tử trận. Hội tấn công Lạc Thành không hạ được, nhưng lại nghe tin một cánh quân của mình đã chiếm được Quan Khẩu nên theo đường đó tiến vào.
Khương Duy, Liêu Hóa bỏ Âm Bình rút lui, gặp Đổng Quyết và Trương Dực vừa kéo đến Hán Thọ. Ông cùng các tướng họp quân rút về Kiếm Các cầm cự với Chung Hội.
Chung Hội viết thư dụ hàng Khương Duy. Ông không trả lời mà lập trại bố phòng. Hai bên giữ nhau khá lâu, quân Ngụy đi đánh đường xa, vận chuyển lương thảo khó khăn nên Hội bị thiếu lương. Chung Hội lo sợ xảy ra bất trắc nên toan tính chuyện rút quân.
Nhưng trong khi Chung Hội bắt đầu nản chí thì Đặng Ngải lại đi tắt theo đường núi Âm Bình, vượt qua Cảnh Cốc, đánh bại tướng Thục là Gia Cát Chiêm ở Miên Trúc rồi tiến thẳng vào Thành Đô. Hậu chủ Lưu Thiện bó tay ra hàng Đặng Ngải.
Khương Duy sai dò tin tức ở Thành Đô, thấy tin đồn lung tung. Vừa có tin Lưu Thiện cố thủ ở Thành Đô, lại có tin Lưu Thiện chạy về Kiến Ninh (Jian Ning)phía nam, lại có tin khác là chạy sang Đông Ngô. Do tin tức không chuẩn, ông bèn lui quân từ Quảng Hán về Thê Huyện. Trên đường đi vừa nghe ngóng tin tức vừa tính việc quân.
Trá hàng Chung Hội
Không lâu sau, có thư của Lưu Thiện ở chỗ Đặng Ngải gửi tới, lệnh cho ông đầu hàng. Khương Duy đau lòng đành phải phụng chiếu. Các tướng sĩ dưới quyền ông vô cùng tức giận, lấy gươm chém xuống đá mà than vãn vì Lưu Thiện không đánh địch đã hàng. Biết Chung Hội và Đặng Ngải có mâu thuẫn, tranh công đánh Thục, ông quyết định đến trá hàng Chung Hội để tìm cơ hội khôi phục nước Thục.
Khi được Chung Hội hỏi vì sao đến hàng muộn, ông chảy nước mắt tỏ ý đau xót nói rằng như vậy đã là sớm. Chung Hội mến tài và lòng trung của ông, nên hậu đãi ông và các tướng Thục. Hội cho ông đi cùng xe, ngồi cùng bàn ăn. Hội rất khâm phục tài Khương Duy, tâm sự với Trưởng sử Đỗ Dự rằng nhân tài nước Ngụy như Gia Cát Đản, Hạ Hầu Huyền không bằng ông.
Chung Hội tranh công đánh Thục với Đặng Ngải, vu cho Ngải làm phản, sai Vệ Quán bắt Ngải, định nhân Ngải giết Quán thì Hội sẽ có cớ đánh. Nhưng Vệ Quán tự dùng mưu bắt sống được cha con Đặng Ngải nộp cho Chung Hội. Hội sai giải Ngải về Lạc Dương rồi cùng Khương Duy tiến vào Thành Đô.
Biết Chung Hội có ý phản Tư Mã Chiêu để tranh giành thiên hạ, Khương Duy lấy gương Văn Chủng, Hàn Tín ra nói với Hội để kích động. Chung Hội nghe theo, quyết định làm phản.
Chung Hội muốn giao cho ông 5 vạn quân tiến ra Tà Cốc, còn mình dẫn đại quân theo sau để đánh vào Lạc Dương tranh thiên hạ với họ Tư Mã. Thế nhưng Tư Mã Chiêu cũng trù liệu Hội làm phản nên đã dồn đại quân đến Tràng An, sai Giả Sung lén đến Tà Cốc, đóng quân ở Lạc Thành. Hội biết mình đã bị Chiêu nghi ngờ, bèn mượn cớ Ngụy thái hậu họ Quách có thư sai mình đánh quyền thần Tư Mã Chiêu để ra lệnh các tướng phản lại Chiêu. Các tướng Ngụy không nghe theo, Chung Hội liền sai giam cả lại, rồi cho những người thân tín nắm binh quyền.
Khương Duy thấy thời cơ đã tới, ông kích động cho Hội giết các tướng Ngụy, rồi sẽ tìm cơ hội giết chết Chung Hội để khôi phục nhà Hán. Ông viết mật thư gửi cho Lưu Thiện nói rằng:"Bệ hạ hãy nhẫn nhục ít ngày, thần muốn làm xã tắc biến nguy thành an".
Trong các tướng bị giam, Hồ Liệt có con là Hồ Uyên đang ở ngoài. Uyên được cha mật báo cho biết việc làm của Chung Hội, bèn ngầm dẫn quân bản bộ cùng Vệ Quán đánh vào Thành Đô, cứu các tướng Ngụy ra. Hồ Liệt trong ngục cũng phao tin rằng Chung Hội chỉ tin tưởng Khương Duy và định chôn sống tất cả quân Ngụy. Vì vậy các tướng sĩ nước Ngụy đều nổi giận, tập hợp binh mã đánh Chung Hội. Khương Duy và Chung Hội không chống nổi cuộc nổi dậy của các tướng Ngụy nên đều bị chết ở Thành Đô đầu năm 264. Ông bị mổ bụng và mọi người thấy quả mật to lớn khác thường.
Khương Duy mất năm 60 tuổi. Họ hàng ông sau đó cũng bị giết.
Sách Hoa Dương Quốc chí cho rằng Khương Duy xui Chung Hội giết hết cả 10 vạn quân Ngụy và được Chung Hội nghe theo, nhưng các sử gia hiện nay cho rằng điều đó không thực tế vì không thể dễ dàng thực hiện được, mà ý định của Khương Duy chỉ giết các tướng Ngụy; do Hồ Liệt phao tin đồn phóng đại lên rằng Chung Hội muốn giết hết họ, làm cho các binh sĩ Tào Ngụy sớm biết tin và bị kích động mạnh nên cùng nhau hành động phản kháng; chính lời đồn của Hồ Liệt làm hỏng mưu kế của Khương Duy.
Cửu phạt trung nguyên?
Từ năm 247, Khương Duy ra quân đánh Ngụy. Việc Gia Cát Lượng ra Kỳ Sơn 6 lần trước đây được Tam Quốc Diễn Nghĩa gọi là Lục xuất Kỳ Sơn, còn Khương Duy đánh Ngụy được gọi là Cửu phạt trung nguyên. Theo các sử gia Trung Quốc, “Cửu phạt trung nguyên” chỉ chính xác đúng 1 chữ “cửu”, còn 3 chữ sau không chính xác:
Phạt: Trong 9 lần đánh nhau với quân Ngụy, không phải tất cả các lần ông chủ động ra quân, mà có lần đánh trong thế bị động.
Trung nguyên: Cả 9 lần ông dùng binh đều không phải tại các địa điểm thuộc trung nguyên (vùng trung tâm Trung Quốc). Khương Duy chỉ đánh vào vùng biên viễn phía tây nước Ngụy. Vì nhà Tào Ngụy cai trị trung nguyên nên việc "đánh Ngụy" được gọi là đánh trung nguyên.
Nhận định
Khương Duy xuất thân là tướng nước Ngụy nhưng gần như cả cuộc đời ông phục vụ nước Thục. Gia Cát Lượng đã nhìn nhận đúng về lòng trung thành với nhà Hán của Khương Duy ngay trong thời gian đầu.
Khương Duy có tài kiêm văn võ, có chí lập công danh, cả đời ông sống cần cù tiết kiệm – giống như phong cách của Gia Cát Lượng. Người đồng liêu của ông là Khước Chính – đã theo Hậu chủ Lưu Thiện sang hàng Ngụy - có nhân định về ông như sau:"Khương Bá Ước nắm quyền thượng tướng, dưới một người trên vạn người, vậy mà nhà cửa ông lại sơ sài cũ nát, trong nhà cũng không có vật gì quý giá. Ông không có vợ bé, không có thê thiếp thân cận, hậu đường không có đàn sáo hát ca, quần áo chỉ cần đủ mặc, xe ngựa chỉ cần chỉnh tề, không hề có yêu cầu cao xa gì. Việc ăn uống của ông cũng rất hạn chế, không thừa không thiếu là được. Triều đình cung cấp vật dụng tiền nong cho ông, ông liền phân phát hết... Mọi người cho rằng Khương Duy đầu hàng hai nơi, mình thì bị giết, tông tộc bị diệt, vì vậy chỉ trích ông mà không suy xét các mặt khác của ông. Đó chính là theo nghĩa “khen chê” của Kinh Xuân Thu mà nêu cao. Con người Khương Duy học không biết mỏi, tiết kiệm hết mình, thật đáng cho muôn đời học tập".
Bàn về cái chết của ông, đời sau có cách nhìn nhận khác nhau. Tôn Thịnh tỏ ý bài bác, cho rằng Khương Duy là bất trung, bất nghĩa, và có thêm nhận xét:Tiến không được, lùi không thống lĩnh được chư tướng, không bảo vệ được vua Thục, kế sách xây dựng đất nước đi ngược với thời thế, làm nước hèn yếu.
Các sử gia Trung Quốc hiện đại coi nhận định của Tôn Thịnh là hoàn toàn sai lầm. Khương Duy phải sang hàng Thục vì bị ngăn đường về nhà, buộc phải đầu hàng nước địch, không thể coi là bất nghĩa; nước mất nhưng không chết theo ngay, một là vì vâng lệnh Hậu chủ Lưu Thiện, hai là vì mưu kế khôi phục, không thể nói là ông không trung.
Bùi Tùng Chi có ý kiến khác về cái chết của ông:Lúc đó Chung Hội đã đến Kiếm Các, Khương Duy và các tướng chống trả quyết liệt... Hội không có cách nào tiến, đã chuẩn bị lui quân, thiếu chút nữa thì Khương Duy lập được đại công bảo vệ nước Thục. Không ngờ Đặng Ngải ngầm đi đường Âm Bình,... Thành Đô tự vỡ… Nếu Khương Duy về chi viện cho Thành Đô, Chung Hội sẽ tập kích đằng sau. Vì vậy nếu trách Khương Duy không bảo vệ được Thục chủ, thật là làm khó cho người… Sau đó Chung Hội… mưu làm việc lớn, giao binh lính cho Khương Duy, dùng ông làm tiền khu. Nếu sự việc không bị vỡ lở, việc ấy thành công… thì khôi phục lại Thục Hán đâu phải chuyện khó... Ta không nên vì sự việc không tiến triển như dự kiến mà cho rằng mưu Khương Duy không tốt. Thử nghĩ, nếu xưa kia Điền Đan định kế xong nhưng cơ hội không tốt mà không thành công thì lẽ nào lại nói Điền Đan ngu xuẩn, đần độn hay sao?.
Các sử gia Trung Quốc coi những ý kiến của Bùi Tùng Chi và Khước Chính về ông là “tận tình tận lý, đủ thuyết phục người”. Cái chết của ông được cảm thán là “rất đáng tiếc, rất đáng thương”.
Trong văn học
Trong tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa, Khương Duy được mô tả tương đối sát thực với chân dung ngoài đời, tận trung với nhà Thục Hán. La Quán Trung khi đề cập tới việc ông về theo hàng Thục đã hư cấu ra tình tiết: Gia Cát Lượng mến tài ông và muốn thu phục nên đã giương bẫy sai người đóng giả làm Khương Duy làm những điều phản nghịch khiến Mã Tuân nghi ngờ ông và dồn ông vào chỗ buộc phải sang hàng Thục. Điều đó khác với sử sách: Mã Tuân đã nghi ngờ ông và sợ ông ngay từ đầu.
Trong bài ca tóm tắt truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa ở cuối sách, La Quán Trung nói về việc 9 lần ra quân đánh Ngụy của ông:Khương Duy cậy sức làm giàChín phen đánh Ngụy kể đà uổng công!
Về cái chết của ông, La Quán Trung mô tả, khi đang đánh giết các tướng Ngụy chống lại ở Thành Đô cùng Chung Hội thì ông bị đau bụng dữ dội không chiến đấu được nữa nên kiệt sức và tự vẫn. La Quán Trung cũng mô tả khi chết Khương Duy bị quân Ngụy mổ bụng, thấy quả mật to như quả trứng gà.
La Quán Trung có bài thơ viếng Khương Duy như sau:Anh tài người Ký huyệnHào kiệt đất Lương châuCon cháu dòng Khương ThượngHọc theo lối Vũ hầuMật lớn, gan ai địch?Lòng trung vững một màuThương thay khi tự vẫnXiết bao nỗi thảm sầu!

Mã Siêu (chữ Hán: 馬超, bính âm: Ma Chao, 176-222), tự Mạnh Khởi 孟起, là một vị võ tướng của nhà Thục Hán vào cuối đời Đông Hán, đầu đời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là hậu duệ của Phục Ba tướng quân Mã Viện đời Đông Hán. Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, ông có biệt danh là "Cẩm Mã Siêu" (nghĩa là Mã Siêu tuyệt mỹ hay đẹp đẽ, lấy từ chữ 錦 “Cẩm” có nghĩa là vải dệt hoa đẹp, gọi là gấm vóc) và là một trong ngũ hổ tướng của nhà Thục Hán bao gồm Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung.
Mã Siêu là vị võ tướng, một chiến binh Tây Lương dũng mãnh nổi danh trong lịch sử thời Tam Quốc. Sử sách đã ghi nhận, ông có tài bắn tên, trong mỗi trận đánh thường xung phong đi đầu. Đặc biệt, thông qua tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, ông được biết đến vì sức mạnh và sự anh dũng, thiện chiến trong chiến đấu.
Mã Siêu từng hùng cứ tại Tây Lương sau đó đã khởi binh chống lại triều đình nhà Hán và nhiều lần đánh bại Tào Tháo trong chiến dịch Đồng Quan. Cuối cùng, vì mắc mưu ly gián của Tào Tháo nên bại vong, phải chạy về Lũng Tây. Ông tiếp tục lãnh đạo những bộ tộc ởLương Châu khởi binh chống lại triều đình tại Lũng Thượng, chiếm được Kí Thành. Nhưng sau đó, các hàng tướng người Hán tạo phản, làm nội ứng cùng với quân triều đình phản công chiếm lại Kí Thành.
Sau thất bại tại trận Kí Thành, Mã Siêu phải chạy về Hán Trung nương nhờ Trương Lỗ, một lãnh chúa cát cứ tại đây. Ông đã nhiều lần mượn binh Trương Lỗ để chống lại Tào Tháo nhưng không thành. Bất bình vì không được Trương Lỗ trọng dụng, Mã Siêu đã đầu quân cho Lưu Bị và trở thành viên tướng tiên phong trong chiến dịch đánh chiếm Thành Đô, thủ phủ của Sứ quân Lưu Chương đang cát cứ ở đó. Cuộc tấn công này đã kết thúc, Lưu Chương đầu hàng đồng thời chiến dịch vào Xuyên mở nước của Lưu Bị thành công, từ đây nhà Thục Hán có đầy đủ cơ sở đầy đủ để ra đời.
Sau khi lập nhiều công lao cho nhà Thục và uy danh vốn có, Mã Siêu nhiều lần được Lưu Bị phong tước và giao nhiều trọng trách quan trọng, ông được phong là một trong Ngũ hổ tướng của Tây Thục. Cuộc đời chinh chiến của ông rất hiển hách, lập nhiều chiến công vang dội, uy trấn cả vùng Tây Bắc Trung Quốc, được nhiều dân tộc thiểu số ở đó mến mộ. Tuy vậy, gia đình ông phải chịu nhiều mất mát, tang thương do chiến tranh.
Mã Siêu sinh năm 176 tại quận (Hữu) Phù Phong huyện Mậu Lăng, vùng Lũng Môn nay thuộc tỉnh Thiểm Tây. Ông là con trai trưởng của Mã Đằng, thứ sử Tây Lương. Ngoài ra, ông còn có hai người em trai ruột là Mã Hưu, Mã Thiết và người anh em họ là Mã Đại.
Mã Siêu xuất thân trong một gia đình “đời đời công hầu” là dòng dõi của Phục Ba tướng quân Mã Viện, gia đình ông có mối quan hệ thân thiết với các lãnh chúa quân phiệt cát cứ ở Tây Lương, bình sinh ông có sức khỏe, là con lai giữa người Hán và người Khương lại giõi võ nghệ, từ nhỏ đã theo cha chinh chiến, lập nhiều chiến công hiển hách nên rất được lòng các dân tộc thiểu số ở vùng Tây Bắc Trung Quốc. Ngoài ra triều đình cũng rất coi trọng Mã Siêu và lần lượt phong nhiều chức tước cho ông.
Chiến dịch dẹp loạn Bình Dương
Năm 204, Thừa tướng Tào Tháo nhà Hán xuất quân đánh các sứ quân Hà Bắc là Viên Đàm, Viên Thượng ở vùng Lê Dương. Để giải tỏa áp lực cho vùng Lê Dương, Viên Đàm phái Quách Viên, Cao Cán tấn công vùng Hà Đông để phân chia binh lực Tào Tháo. Tào Tháo cử quan Tư Lệ hiệu uý Chung Do trấn thủ Quan Trung để đồng thời đốc suất các chư tướng ở Quan Trung cùng hợp sức đánh dẹp Cao Cán, Quách Viên.
Chung Do gửi thư cho Mã Đằng, Hàn Toại khi đó đang có xung đột, phân tích lợi hại và yêu cầu hai bên hòa giải và cũng đề nghị Mã Đằng xuất quân phối hợp thảo phạt Quách Viên và Cao Cán. Thừa tướng Tào Tháo ở Hứa Đô cũng đã yêu cầu Mã Siêu với tư cách là con trưởng của Mã Đằng về Hứa Đô. Tuy nhiên, Mã Siêu kiên quyết không chịu đến kinh đô mà ở lại Tây Lương để tham gia các chiến dịch quân sự.
Mã Siêu được Mã Đằng cử làm chỉ huy quân Tây Lương phối hợp với quân triều đình theo Chung Do đi đánh Quách Viên, Cao Cán ở Bình Dương. Mã Siêu lĩnh mệnh dẫn quân chiến đấu, Bàng Đức cũng được cử làm bộ tướng cho Mã Siêu đi theo ông trong chiến dịch này. Để ghi nhận sự hỗ trợ này, triều đình nhà Hán đã phong Mã Siêu làm Tư Lệ Hiệu uý Đốc quân Tòng sự (ngang với chức vụ của Chung Do), làm tư lệnh quân Tây Lương trong chiến dịch này.
Trong trận đánh này, liên minh giữa quân đội triều đình với sự hỗ trợ của quân Tây Lương do Mã Siêu chỉ huy đã giao tranh quyết liệt với quân họ Viên. Mã Siêu lập công đầu trong việc xông pha trận mạc, chém tướng và lập công đầu, đem lại thắng lợi quyết định cho chiến dịch.
Lúc đánh dẹp Quách Viên, chiến sự diễn ra ác liệt, quân họ Viên dựa vào cung nỏ kháng cự quyết liệt với liên quân Tào – Tây Lương. Trong lúc chiến đấu hỗn loạn, Mã Siêu bị tên có tẩm độc bắn trúng vào chân nhưng ông vẫn xông pha chém giết, bất chấp thương thế trầm trọng, vẫn “cứ mặc kệ chân bị sưng tấy mà chiến đấu, phá được địch, chém lấy thủ cấp của Quách Viện”, anh dũng vô địch lập được công đầu. Chiến công này có ý nghĩa bản lề đối với sự nghiệp của Mã Siêu, qua trận chiến này uy danh của ông đã tăng lên đáng kể trong quân đội Tây Lương, làm tiền đề căn bản để ông thay thế cha trở thành một thế lực cát cứ tại đây.
Việc Mã Siêu làm tiên phong và xông pha chiến đấu, phá tan được quân nổi loạn, tiêu diệt được chỉ huy phiến quân các sử sách đề thống nhất ghi nhận. Tuy nhiên việc xác định ai người chém đầu Quách Viên sử sách chép không thống nhất với nhau.
Tam Quốc chí dẫn lại ghi chép của Điển lược thì viên chỉ huy Quách Viện do đích thân Mã Siêu chém chết. Nhưng theo Tam Quốc chí thì người chém Quách Viên là Bàng Đức. Tam Quốc chí đã hai lần khẳng định chi tiết này trong Mã Siêu truyện và Bàng Đức truyện, theo đó, bộ tướng của Mã Siêu đã chém được Quách Viên, cắt lấy thủ cấp, trong trận đánh này, Bàng Đức “làm tiên phong, tiến đánh Viên, Cán, đại phá quân địch, đích thân chém đầu Viên”.
Ngoài ra, Nguỵ lược chép rất chi tiết về sự kiện này. Theo đó, “Đức chém được một thủ cấp, không biết đó là Viên. Sau khi tan cuộc chiến, chúng nhân đều nói Viên đã chết mà không tìm được thủ cấp. Viên, là cháu ngoại của Chung Do. Về sau Đức từ từ bỏ cái túi xuống thì bên trong có một cái đầu rơi ra, Do nhìn thấy cái đầu ấy liền khóc. Đức tạ lỗi với Do, Do nói: "Viên tuy là cháu ta, nhưng là kẻ quốc tặc. ông hà cớ gì mà tạ ta?".Tam Quốc chí phần Bàng Đức truyện cũng chép rằng sau trận đánh này Bàng Đức được thăng chức từ Hiệu úy lên Trung Lang tướng và sau đó được nhận tước Đô Đình hầu.
Sau thắng lợi quan trọng này, triều đình nhà Hán lúc này do Tào Tháo thao túng đã xuống chiếu phong cho Mã Siêu làm Từ Châu Thứ sử, sau đó lại tiếp tục bái ông làm Gián Nghị đại phu.Các chức tước này đủ đảm bảo địa vị pháp lý chính danh cho Mã Siêu trở thành một lãnh chúa tối cao ở Tây Lương sau này.
Điều đó cho thấy thái độ của triều đình trung ương đối với Tây Lương và Mã Siêu mặc dù các chức tước này thực chất chỉ là hình thức vì Mã Siêu thực tế đang ở tận “xó Tây Lương hẻo lánh” không thể tiếp quản Từ Châu được, và cũng không thể can gián nhà vua, nói điều phải với vua khi ở ngoài biên ải.
Đầu quân cho Trương Lỗ
Sau thất bại trong cuộc chiến tái chiếm vùng Lũng Thượng, Mã Siêu mất hoàn toàn chỗ dựa tại vùng này, không còn cách nào khác, ông cùng với gia đình và thuộc hạ thân tín là Bàng Đức phải chạy trốn vào vùng Hán Trung, nương nhời dưới trướng của lãnh chúa Trương Lỗ.
Lãnh chúa Trương Lỗ nhận thấy Mã Siêu là viên tướng tài năng, uy danh lừng lẫy, có thể tận dụng ông cùng với bộ hạ cũ để tăng cường tiềm lực quốc phòng của mình nên đã dung nạp Mã Siêu, bổ nhiệm ông làm Đô giảng Tế Tửu.
Không những vậy, Trương Lỗ rất yêu mến Mã Siêu, có ý muốn gả con gái của ông cho Mã Siêu. Nhưng việc Trương Lỗ quá ưu ái Mã Siêu khiến một số cựu thần của ông bất mãn, ganh ghét. Có ngườikhuyên can Trương Lỗ rằng: “Người chẳng biết yêu người thân thích, sao có thể yêu mến người khác được?”. Vì sợ mất lòng những bề tôi cũ đành phải hủy bỏ cuộc hôn nhân này đồng thời thay đổi thái độ đối với Mã Siêu, không trọng dụng ông, chỉ cho đóng quân ở ngoài biên ải. Tam Quốc chí chép rằng: “Lỗ chẳng biết xét việc, không dùng Siêu, cho ở ngoài”.
Về phía Mã Siêu, khi đầu quân cho Trương Lỗ và được trọng dụng, Mã Siêu đã nhiều lần gặp Trương Lỗ để xin hỗ trợ binh sĩ để ông dẫn quân bắc tiến lấy lại Lương Châu. Vì nhiều lần Mã Siêu yêu cầu nên Trương Lỗ đất đắc dĩ phải cấp binh lính cho ông ta nhưng việc tấn công phía Bắc của Mã Siêu không được việc.Sử sách không chép cụ thể một cuộc hành binh nào của Mã Siêu trong giai đoạn này, có thể thấy việc Trương Lỗ chấp nhận yêu cầu của Mã Siêu chỉ đơn thuần là đồng ý về mặt chủ trương vì cả nể, trong quá trình triển khai thực hiện thì không khả thi.
Mã Siêu lúc này rơi vào tình thế bất đắc chí, bị thất sủng và bị cô lập, gia đình hiu quạnh, thuộc hạ thân tín quá ít ỏi. Tình cảnh của ông trong giai đoạn này thật khó khăn, trái ngược với danh tiếng và tham vọng của ông.
Tam Quốc chí dẫn lại ghi chép của Điển Lược cho biết: Khi trước, lúc Mã Siêu chưa khởi binh chống lại triều đình (nguyên văn chép là làm phản), vợ lẽ của Siêu là Đệ Chủng (đoạn sau lại chép là Đổng) ở lại Tam Phụ đến khi Mã Siêu thua trận, Chủng cùng với con trai là Mã Thu chạy vào Hán Trung trước. Vào ngày Mùng một Tết Nguyên đán, Đệ Chủng (hay Đổng) theo tục lệ chúc thọ Mã Siêu. Mã Siêu phẫn uất đấm ngực đến thổ huyết và than rằng:
“ Nhà ta trăm nhân khẩu, một sớm chết cả, nay chỉ có hai ta chúc nhau như vậy sao? ”
Trong thời gian ở dưới trướng Trương Lỗ, Mã Siêu nhận thấy Trương Lỗ “chẵng thể cùng bàn tính việc” cho nên Mã Siêu ôm nỗi buồn bực, thêm vào đó kế hoạch Bắc tiến phục hận không triển khai được, ngoài ra viên tướng thân tín của Trương Lỗ là Dương Bách hiềm tỵ, ganh ghét muốn hãm hại người tài, nhiều lần xàm tấu về Mã Siêu chính vì vậy, khi nghe tinLưu Bị vào Xuyên, hiện đang vây đánh Lưu Chương ở Thành Đô, ông lập tức bí mật gửi thư xin hàng Lưu Bị để về đầu quân cho ông này.
Theo về với Lưu Bị
Lưu Bị nhận được mật thư xin quy phục của Mã Siêu lập tức cử Lý Khôi đến Hán Trung truyền đạt ý định của Lưu Bị và bàn định chi tiết với Mã Siêu. Mã Siêu nhận lệnh của Lưu Bị và lên kế hoạch bỏ Trương Lỗ về với Lưu Bị. Tam Quốc chí chép: “Tiên chủ sai Khôi tới Hán Trung giao hảo với Mã Siêu, Siêu bèn vâng lệnh”.
Năm Kiến an thứ mười chín, Mã Siêu theo lối Vũ Đô chạy vào khu vực sinh sống của rợ Đê để tạm trú sau đó bỏ sang đất Thục theo về với Lưu Bị.Tuy vậy, vợ con của Mã Siêu không thể theo ông trốn sang Thục mà vẫn phải lưu lại Hán Trung sống nhờ vào chu cấp của Trương Lỗ. Sau khi Mã Siêu vào đất Thục không lâu thì Tào Tháo dẫn binh tiến đánh Hán Trung. Trương Lỗ thất bại trong cuộc chiến này phải đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo bắt được vợ con của Mã Siêu, liền lấy vợ lẽ của Mã Siêu ban thưởng cho Diêm Phố, còn con trai Mã Thu thì giao cho Trương Lỗ, Trương Lỗ phải tự tay giết đi.
Sự kiện Mã Siêu bỏ Trương Lỗ sang đầu quân cho Lưu Bị được một số nhà nghiên cứu cho rằng:Năng lực dùng người của Trương Lỗ còn nhiều hạn chế chính vì thế mới không thể sử dụng được Mã Siêu, ông ta chưa nhận thức được trong thuật dùng người thì “Ngàn quân dễ kiếm, một tướng khó tìm” mà Mã Siêu là một hổ tướng trong thiên hạ, danh bất hư truyền, nay đã đến dưới trướng của Trương Lỗ nhưng ông ta không biết cách trọng dụng, điều đó gây bất mãn cho Mã Siêu và sớm muộn gì thì Mã Siêu cũng sẽ rời bỏ Trương Lỗ.
Ngoài ra, trong thuật dùng người cần chú trọng đến nguyên tắc “đã dùng thì không nghi, đã nghi thì không dùng”. Khi Mã Siêu về với Trương Lỗ, ông ta hoàn toàn vui mừng, tin tưởng Mã Siêu, có ý định trong dụng ông, đã phong cho ông chức Đô giảng Tế tửu, chu cấp cho gia đình Mã Siêu, cho ông chỉ huy quân Bắc phạt và còn định gả con gái của mình cho Mã Siêu. Nhưng sau đó vì nghe lời xàm tấu của những nịnh thần ghen ghét hiền tài, nên ông ta không còn tin tưởng Mã Siêu.
Chính vì vậy, dù đã giao trọng trách cho Mã Siêu mà Trương Lỗ vẫn không hoàn toàn tin tưởng, lại nghe lời xàm tấu điều đó chứng tỏ Trương Lỗ không biết dùng người. Chính sự nghi kỵ của Trương Lỗ đã đẩy Mã Siêu về phía Lưu Bị và ông ta chỉ việc giơ tay đón lấy viên hổ tướng này.
Trong Tam quốc diễn nghĩa sự kiện Mã Siêu về với Trương Lỗ thì chép giống với sử sách. Tuy nhiên, việc Mã Siêu đầu quân cho Lưu Bị có sự khác biệt. Theo đó, Trương Lỗ đã giao hai vạn quân cho Mã Siêu tiến vào Tây Xuyên để giải vây cho Lưu Chương. Mã Siêu tiến đến ải Hà Manh và đã kịch chiến một trận quyết liệt với Trương Phi tại đây, hai bên đã đấu hơn hai trăm ba mươi hiệp, từ trưa đến chiều tối mà vẫn bất phân thắng bại. Lưu Bị nhiều lần phải thốt lên biểu thị sự cảm phục đối với Mã Siêu và có lòng muốn thu phục viên tướng này.
Gia Cát Lượng bèn lên kế sai người đem nhiều vàng bạc để mua chuộc Dương Tùng gièm pha Mã Siêu khiến cho Trương Lỗ lệnh cho Mã Siêu lập tức lui binh. Nhưng một khi sự việc chưa thành, Mã Siêu nhất định không chịu quay về, Trương Lỗ đã mấy lần sai sứ giả mang quân lệnh đến nhưng Mã Siêu đều tìm cách chối từ. Nhân việc đó Dương Tùng gièm pha với Trương Lỗ là Mã Siêu có ý làm phản. Trương Lỗ nghe lời xúc xiểm của Dương Tùng sai Dương Vệ đóng chặt cổng thành đề phòng Mã Siêu làm phản, hơn nữa cũng nghe lời Dương Tùng sai người đến đặt điều kiện với Mã Siêu, hạn định trong một tháng phải làm được ba việc : một là phải lấy được Tây Xuyên, hai là, phải lấy thủ cấp của Lưu Chưong, ba là, phải đánh đuổi được đại quân Kinh Châu.
Không còn cách nào khác Mã Siêu đành phải lui binh. Nhưng khi đến cổng thành biên giới, Trương Vệ dứt khóat không mở cổng thành cho vào vì nghe Dương Tùng phao tin rằng Mã Siêu có ý làm phản. Lúc này Mã Siêu trong hoàn cảnh tiến thoái lưỡng nan, Gia Cát Lượng phái Lý Khôi trước đây đã có quan hệ với Mã Siêu, đến gặp Mã Siêu và thuyết phục được ông đầu quân cho Lưu Bị.
Sự kiện Mã Siêu đầu quân cho Lưu Bị được sử sách và các nhà nghiên cứu đánh giá đây là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời binh nghiệp của Mã Siêu. Tam Quốc chí nhận định rằng Mã Siêu đã “ngược đường về với đức, gởi gấm vào phượng, nương tựa vào rồng”.
Trong Tam Quốc diễn nghĩa cũng hư cấu lời bộc bạch của ông:
“ Nay mới gặp được minh chúa, ví cũng như quét đám mây mù mà trông thấy trời xanh. ”
Các nhà nghiên cứu cũng đồng ý với ghi nhận này, đồng thời khẵng định thêm Mã Siêu đã không phụ tấm lòng trông đợi của Lưu Bị, ngoài trận mạc lập được nhiều chiến công hiển hách và được Lưu Bị trọng dụng, tấn phong nhiều chức tước.
Mã Siêu trong Phim
VIII. HÒANG TRUNG
Hoàng Trung (黄忠, bính âm: Huáng Zhōng; Wade-Giles: Huang Chung), (145-220), là một vị tướng cuối thời Đông Hán nhà Đông Hán đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Hoàng Trung được Tam Quốc diễn nghĩa miêu tả là một lão tướng nhưng sức địch muôn người, đã lập nhiều công lao cho Lưu Bị và là một trong Ngũ hổ tướng của quân Thục gồm: Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung và Mã Siêu.
Hoàng Trung tự Hán Thăng (汉升), quê ở quận Nam Dương thuộc Kinh châu.
Lúc đầu ông theo Lưu Biểu, cùng với Lưu Bàn (cháu Lưu Biểu) trấn thủ huyện Du thuộc quận Trường Sa. Về sau Tào Tháo đánh chiếm Kinh châu, lệnh cho Hoàng Trung thay chức Tỉ tướng quân, theo thái thú Trường Sa là Hàn Huyền.
Khi Lưu Bị đem quân đến lấy Kinh Châu, Hoàng Trung theo về với Lưu Bị.
Lưu Bị mang quân vào Tây Xuyên đánh Lưu Chương, Hoàng Trung nhận lệnh theo vào, tham chiến tại cửa ải Hà Manh. Ông thường dũng cảm xung phong đi đầu trước các sĩ tốt, được đánh giá là can đảm cương nghị.
Sau khi đánh chiếm được Ích châu, Lưu Bị phong ông làm Thảo lỗ tướng quân.
Cuối năm 218, Hoàng Trung cùng Lưu Bị tấn công lên Hán Trung - vùng đất Tào Tháo mới chiếm được của Trương Lỗ. Quân Thục nhanh chóng lấy cửa ải Dương Bình, sang đầu năm 219, vượt qua sông Miện Thủy. Lưu Bị đóng quân hạ trại tại núi Định Quân, Hoàng Trung được lệnh cầm một cánh quân mai phục ở phía sau đỉnh núi này.
Tướng Tào Ngụy là Hạ Hầu Uyên không biết là mưu kế, mang toàn quân tới đánh doanh trại của Lưu Bị. Trong khi hai bên đang xô xát kịch liệt, đột nhiên Hoàng Trung từ trên cao thúc trống đánh xuống, khí thế rất mạnh vào sườn quân Tào. Quân Tào bị đánh tan nát không còn hàng trận. Hoàng Trung chém được Hạ Hầu Uyên và giết được thứ sử Ích châu của Tào Tháo là Triệu Ngung.
Nhờ chiến công ở trận này, Hoàng Trung được phong là Chinh Tây tướng quân.
Tháng 7 năm 219, Lưu Bị tự xưng là Hán Trung vương, bổ nhiệm ông làm Hậu tướng quân, ngang hàng với Quan Vũ (Tiền tướng quân),Mã Siêu (Tả tướng quân) và Trương Phi (Hữu tướng quân). Ban đầu Quan Vũ trấn thủ Kinh châu nghe tin ông là người mới mà có địa vị ngang hàng tỏ ra không bằng lòng, sau vì Phí Thi thuyết phục giải thích, Quan Vũ mới thôi bất bình. Hoàng Trung còn được ban tước Quan nội hầu.
Năm 220, Hoàng Trung lâm bệnh mất, được đặt tên thụy là Cương hầu. Đời sau khi nhắc đến người già mà sức còn dẻo dai thường ví với Hoàng Trung
Trong Tam Quốc diễn nghĩa
Hoàng Trung trong Tam Quốc diễn nghĩa được hư cấu khá nhiều, dù về tính cách chân dung thì gần với sử sách nhưng có nhiều tình tiết được sáng tác. Ông xuất hiện từ hồi 53 đến hồi 81.
Quy hàng Lưu Bị
Trận chiến giữa Hoàng Trung và Quan Vũ tại Trường Sa được mô tả rất hấp dẫn. Tài nghệ của hai người ngang nhau, đánh không phân thắng bại. Hoàng Trung bị thái thú Hàn Huyền nghi ngờ thông đồng với Quan Vũ nên sai mang chém. Nhưng ông được Ngụy Diên đánh vào pháp trường cứu sống. Tuy vậy ông vẫn không đồng tình với việc Ngụy Diên đi giết Hàn Huyền, cuối cùng ông không ngăn cản được.
Lưu Bị, Quan Vũ phải thuyết phục nhiều lần, Hoàng Trung mới thuận đi theo.
Trận chiến tại Thiên Đăng Sơn
Hồi thứ 70, tướng Ngụy là Trương Cáp sau khi thất bại trước Trương Phi ở Ngõa Khẩu Ải được Tào Hống cấp 5.000 quân đến đánh cửa Hà Manh. Tin báo về Thành Đô. Gia Cát Lượng dùng kế khích tướng Hoàng Trung. Hoàng Trung xin cùng lão tướng khác là Nghiêm Nhan ra trận. Lưu Bị đồng ý. Các tướng khác đều không tin hai lão tướng có thể lập công.
Hoàng Trung muốn chiếm núi Thiên Đăng là nơi cất giữ lương thảo của quân Tào nên nghĩ ra một kế. Hoàng Trung giả vờ thua quân Tào mấy trận liền, rút về cửa ải. Huyền Đức lo lắng, hỏi Khổng Minh. Khổng Minh bảo là mẹo của Hoàng Trung để quân địch sinh kiêu. Các tướng không tin. Lưu Bị sai Lưu Phong ra tiếp ứng.
Đến canh 2, Hoàng Trung dẫn 5.000 quân từ cửa ải kéo xuống. Quân Tào không phòng bị nên thua lớn, chết không biết bao nhiêu mà kể. Hoàng Trung đuổi đến sáng, cướp lại được nhiều trại sau đó lại thúc quân đuổi theo. Quân Tào rút về núi Thiên Đăng. Sau đó quân Tào trở lại phản công nhưng thất bại. Hàn Hạo, Hạ Hầu Đức bị giết. Quân Tào bỏ núi Thiên Đăng chạy về núi Định Quân. Huyền Đức nhân dịp đó khởi binh đến đánh Hán Trung, thưởng cho Hoàng Trung, Nghiêm Nhan rồi sai Hoàng Trung và Pháp Chính đem quân đánh núi Định Quân.
Trận chiến núi Định Quân
Tam Quốc diễn nghĩa mô tả vai trò của Hoàng trung rất lớn. Ông đi cùng Pháp Chính, không có sự tham gia của Lưu Bị.
Cái chết
Năm 222, Lưu Bị dẫn 70 vạn đại quân đánh Đông Ngô để báo thù cho Quan Vũ, Trương Phi. Hoàng Trung dẫn quân đến Di Lăng nghênh chiến quân Ngô. Hoàng Trung gặp Phan Chương, chém chết bộ tướng của Phan Chương là Sư Tịch, Phan Chương chống cự không nổi bỏ chạy. Quan Hưng, Trương Bào đến khen ngợi Hoàng Trung và khuyên ông quay về nhưng Hoàng Trung không nghe. Ðánh được vài hiệp, Phan Chương bỏ chạy, Hoàng Trung rượt theo, được chừng vài dặm, hai đạo binh mai phục ào tới, một phía là Chu Thái, một phía là Hàn Đương xông ra một lượt. Phía trước Phan Chương phủ vây Hoàng Trung vào giữa. Hoàng trung cố sức chống cự lại tiếp tục bị trúng tên, may nhờ có Quan Hưng, Trương Bào đến cứu. Lưu Bị nghe tin Hoàng Trung trọng thương thì đến thăm. Đến nửa đêm, Hoàng Trung tắt thở. Lưu Bị đau buồn, sai đưa về Thành Đô chôn cất tử tế.Sự thực, Hoàng Trung đã qua đời vì bệnh (không bị tử trận) trước khi Lưu Bị xưng đế và ông không tham dự chiến dịch đánh Đông Ngô.
IX. TÀO THÁO
Tào Tháo (chữ Hán: 曹操; 155 – 220); tự là Mạnh Đức (孟德), là nhà chính trị, quân sự kiệt xuất cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người đặt cơ sở cho thế lực quân sự cát cứ ở miền Bắc Trung Quốc, lập nên chính quyền Tào Ngụy thời Tam Quốc. Ông được con trai truy tôn là Thái tổ Vũ Hoàng Đế.
Tào Tháo là người đã có công lớn trong việc dẹp loạn khăn vàng và Đổng Trác. Tuy nhiên, hình ảnh về ông không được các nhà nho học ưa thích và thường được mang ra làm biểu tượng cho sự dối trá, vô liêm sỉ
Ông còn là một nhà thơ xuất sắc. Ông và hai con trai Tào Phi, Tào Thực được đời sau gọi là Tam Tào, cùng với nhóm Kiến An thất tử và nữ sĩ Thái Diễm hình thành nên trào lưu mới trong văn học thời Hán mạt, gọi chung là Kiến An phong cốt.
Tào Đằng và Tào Tung
Tào Tháo là con trai của Tào Tung. Cha ông vốn xuất thân trong gia đình bình thường, không có tiếng tăm, gia thế không được sử sách nêu rõ. Có ý kiến cho rằng Tào Tung nguyên có tên là Hạ Hầu Tung, sau làm con nuôi hoạn quan Tào Đằng nên lấy họ Tào
Tào Đằng là một trong những Thái giám có thế lực trong triều đình Đông Hán, lần lượt phục vụ 5 đời vua Hán An Đế, Hán Thuận Đế, Hán Xung Đế, Hán Chất Đế, Hán Hoàn Đế và được phong chức Phí Đình hầu
Tào Tung là con nuôi Tào Đằng, nhờ cha nên từng được giữ các chức vụ Tư Lệ hiệu uý, Đại Tư nông, Đại hồng lư. Vì triều đình hủ bại của Hán Linh Đế cho mua quan bán tước nên sau đó Tào Tung còn mua được chức quan Thái uý trong vài tháng
Năng thần thời trị
Năm 20 tuổi, Tào Tháo thi đỗ Hiếu liêm. Ông được quan Kinh Triệu doãnlà Tư Mã Phòng (cha của Tư Mã Ý) tiến cử giữ chắc Bắc bộ Uý (coi giữ phía bắc) ở kinh thành Lạc Dươngđã nổi tiếng là người nghiêm túc. Sau khi đến nhiệm sở, ông cho đặt roi ngũ sắc trước cửa công đường, hễ ai phạm tội đều trị thẳng tay. Chú của đại thần Kiển Thạc là Kiển Thúc phạm tội vác dao đi đêm, ông sai bắt vào phủ đánh roi thẳng thừng không vì nể. Vì gia thế Tào Tháo rất lớn nên vụ việc này ông không gặp rắc rối, tiếng tăm ông cũng từ đó vang khắp kinh thành
Sau đó, Tào Tháo giữ chức tướng quốc nước Tế Nam, ông lại liên tiếp đứng ra tố cáo các quan tham phạm pháp; sau đó lại phá hơn 600 ngôi miếu thờ mà triều đình không cho phép thờ cúng.
Hiệp lực đánh Đổng Trác
Bỏ trốn: Năm 184, cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng do Trương Giác lãnh đạo bùng nổ. Tào Tháo cùng các quân phiệt địa phương cùng các tướng trong triều đình đàn áp thành công, nên được Hán Linh Đế phong làm Điển quân hiệu uý trong triều.
Khi đó mâu thuẫn giữa phe ngoại thích do Hà Tiến đứng đầu và hoạn quan ngày càng gay gắt. Tào Đằng đã mất, Tào Tháo tuy xuất thân trong gia đình hoạn quan nhưng lại đứng về phía ngoại thích Hà Tiến. Năm 189, Hà Tiến bị hoạn quan lừa giết, Tào Tháo hợp sức với một thủ hạ khác của Hà Tiến là Viên Thiệu đánh vào cung, giết chết các hoạn quan.
Sau đó Thứ sử Tây Lương là Đổng Trác - vốn trước được Hà Tiến triệu về kinh - khống chế triều đình, tự xưng là Thái sư. Năm 190, Tào Tháo được Đổng Trác phong lên chức Kiêu kỵ hiệu uý. Sau đó không rõ lý do gì ông bỏ trốn khỏi Lạc Dương
Khi chạy tới Thành Cao phía bắc Trịnh Châu, Tào Tháo ghé vào nhà người quen là Lã Bá Sa. Do hiểu lầm, thấy nhà Lã Bá Sa mài dao định giết lợn, Tào Tháo tưởng là họ giết mình nên đã giết cả nhà Bá Sa.
Sau đó Tào Tháo chạy về phía đông tới huyện Trung Mâu. Có viên Bảo trưởng thấy ông có vẻ lén lút, cho rằng ông là đinh tráng trốn binh dịch bèn bắt giữ. Nhưng sau đó Tào Tháo được một viên Công tào cứu giúp, thuyết phục được Huyện lệnh Trung Mâu thả ông ra.
Tam Quốc Diễn Nghĩa tường thuật việc Tào Tháo ám sát Đổng Trác không thành mới bỏ trốn; được Trần Cung thả ở Trung Mâu trước và giết Lã Bá Sa khi đi cùng Trần Cung xảy ra sau; nhưng thực ra việc giết Bá Sa không có mặt Trần Cung và sử không chép rõ viên huyện lệnh Trung Mâu có phải Trần Cung hay không[
Hợp binh với chư hầu
Tào Tháo từ Trung Mâu chạy về phía đông Trần Lưu. Đúng lúc đó Viên Thiệu phát hịch đi các trấn kêu gọi đánh Đổng Trác. Ông bàn mưu với Thái thú Trần Lưu là Trương Mạo khởi binh chống Đổng Trác. Bản thân Tào Tháo được Vệ Tư tặng tiền bạc để mộ quân. Con cháu họ Tào và họ Hạ Hầu đi theo Tào Tháo rất đông. Ông mộ được 5000 người, đi đánh Đổng Trácdưới quyền Trương Mạo; cùng đi theo Trương Mạo còn có Bão Tín cũng mộ được 2 vạn quân.
Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Tào Tháo chính là người hiệu triệu chư hầu chống Đổng Trác và không ở dưới quyền ai trong các lộ chư hầu.
Các chư hầu hội binh chống Đổng Trác khi đó có 10 lộ quân: Viên Thiệu (đứng đầu), Viên Thuật, Hàn Phức, Khổng Do, Lưu Đại, Trương Mạo, Trương Siêu, Vương Khuông, Viên Di, Kiều Mạo. Thái thú Ngô quận là Tôn Kiên không đến hội binh cũng hưởng ứng tự ra quân. Tào Tháo được Viên Thiệu cử làm Phấn Vũ tướng quân, ông lại xin với Viên Thiệu cử Bão Tín làm Phá lỗ tướng quân.
Trong khi Tôn Kiên đi tiên phong đánh Đổng Trác thì Viên Thiệu vẫn họp các chư hầu ở Hoài Khánh không hề tiếp ứng, chỉ mở tiệc uống rượu. Đổng Trác sợ uy thế các chư hầu nên tháng 3 năm 191 cũng bỏ Lạc Dương, mang Hán Hiến Đế chạy sang Tràng An, để Từ Vinh ở lại đóng quân cạnh Lạc Dương yểm hộ.
Thấy Đổng Trác đốt kinh thành bỏ chạy, Tào Tháo kiến nghị Viên Thiệu ra quân truy kích nhưng Thiệu không dám ra quân. Tào Tháo làm ầm lên trong hội nghị chư hầu đòi đi đánh. Trương Mạo cũng đồng tình, trách cứ Viên Thiệu trước chư hầu. Viên Thiệu bất đắc dĩ cho Tào Tháo vài ngàn quân đi. Khi chưa tiến đến Thành Quầnvì ít quân nên ông bị Từ Vinh đánh bại, quân chết quá nửa.
Tào Tháo chạy về Toan Táotìm các chư hầu. Ông kiến nghị chư hầu chia quân: Viên Thiệu thống suất đại quân đánh Thành Cao, bao vây Lạc Dương; còn Viên Thuật thì ngầm đánh từ Nam Dương đánh úp vào cửa Vũ Quan, chiếm lấy Tràng An, cắt đứt đường tiến lui của Đổng Trác. Nhưng Viên Thiệu và các chư hầu bỏ ngoài tai lời kiến nghị của ông. Tào Tháo tức giận bỏ đi, chiêu mộ được thêm 4000 quân mã đi đánh Lạc Dương. Tuy nhiên giữa đường quân mới mộ làm phản. Dù Tào Tháo ra sức trấn áp, tuốt gươm giết chết vài chục người nhưng số đông vẫn tản đi, chỉ còn lại 500 quân theo ông.
Tào Tháo đành bỏ việc đánh Đổng Trác để xây dựng lại lực lượng. Các chư hầu do Viên Thiệu đứng đầu cũng chia rẽ và tan rã, đánh giết lẫn nhau.
Làm chủ Duyện châu
Dẹp Khăn Vàng
Trước khi liên minh đánh Đổng Trác tan vỡ, Tào Tháo đã mang tàn quân về quê, ra sức chiêu nạp hào kiệt. Khi đó dù 3 anh em Trương Giác đã chết nhưng lực lượng Khăn Vàng vẫn còn thế lực khá mạnh, có hơn 10 vạn người tụ tập ở Hắc Sơn, chiếm lĩnh Đông quận, triều đình chưa dẹp được.
Năm 191, Tào Tháo mang quân đánh nhau với quân Khăn Vàng tại Hắc Sơn. Quân khởi nghĩa tuy đông nhưng ô hợp, bị Tào Tháo dùng kế đánh bại, song lực lượng còn mạnh.
Năm 192, quân khởi nghĩa tổ chức phản công. Tào Tháo dùng số quân nhỏ cố thủ ở phía đông Vũ Dương, tự ông mang quân chủ lực tập kích căn cứ Đông quận của địch. Ông đánh chiếm Đông quận và đây trở thành nơi căn cứ đầu tiên của họ Tào.
Không lâu sau, quân khởi nghĩa từ Thanh châu tấn công Duyện Châu, giết chết thứ sử Lưu Đại. Theo lời đề nghị của Bão Tín, Tào Tháo mang quân đến cứu Duyện châu. Nhân sĩ ở Đông quận là Trần Cung đến theo Tào Tháo, thuyết phục được các thủ hạ của Lưu Đại nhất trí tôn Tào Tháo thay Lưu Đại quản lý Duyện châu. Ông cùng quân Khăn Vàng quyết chiến tại Thọ Dương.
Bão Tín giao chiến bị tử trận. Tào Tháo mang 1000 quân tập kích doanh trại địch nhưng quân Khăn Vàng đã đề phòng khiến ông suýt bị bắt sống. Thấy không thể dùng chiến thuật đánh nhanh, Tào Tháo đổi hướng, đánh chắc từng phần. Ông áp dụng chiến thuật tiêu hao từng bước, quân Khăn Vàng phải lùi dần. Sau cùng, Tào Tháo dồn quân địch vào Tế Bắcbao vây. Khi đó phía sau lưng quân Khăn Vàng là Thanh châu và Ký châu do Viên Thiệu chiếm giữ. Sau một thời gian, quân Khăn Vàng bị tuyệt lương, không còn đường chạy nên phải đầu hàng. Tào Tháo thu hàng 30 vạn người, chọn ra 10 vạn người đưa vào quân đội của mình. Từ đó lực lượng của ông mạnh lên đáng kể.
Tào Tháo làm chủ Duyện châu. Chủ cũ của ông là Trương Mạo làm thái thú quận Trần Lưu là một quận thuộc Duyện châu cũng rất ủng hộ ông. Viên Thiệu ở Ký châu, thù Trương Mạo mắng mình trong hội nghị chư hầu, bèn gửi thư cho Tào Tháo khuyên ông giết Trương Mạo để trừ hậu họa. Tào Tháo không nghe, mang việc đó nói lại với Trương Mạo, vì vậy Mạo rất cảm phục ông.
Đánh Từ châu báo thù cha
Giữa năm 193, cha Tào Tháo là Tào Tung từ Lạc Dương tới Lang Nha định dưỡng lão, mang theo hơn 100 xe hành lý chứa nhiều vàng bạc châu báu; khi đi ngang qua Từ châu thì bị bộ tướng của Đào Khiêm - thứ sử Từ châu – là Trương Cương giết chết và cướp hết đồ. Đào Khiêm vốn trước không tham gia liên quân chống Đổng Trác; khi Trác bị giết (tháng 4 năm 193), Đào Khiêm vẫn ủng hộ triều đình Tràng An do thủ hạ của Trác là Lý Thôi và Quách Dĩ nắm quyền. Vừa lúc đó ở huyện Hạ Bì thuộc Từ châu có quân khởi nghĩa của Khuyết Tuyên nổi dậy xưng đế, Đào Khiêm lại có liên hệ qua lại
Tào Tháo nghe tin cha bị hại ở Từ châu, cho rằng Đào Khiêm đồng mưu sai khiến thủ hạ, lại lấy cớ Khiêm ủng hộ Lý Thôi và ngụy hoàng đế Khuyết Tuyên, bèn cất vài chục vạn quân đi đánh Từ châu để hỏi tội. Ông cũng muốn nhân đó chiếm luôn địa bàn Từ châu liền kề với Duyện châu để mở rộng thế lực nên thúc quân tấn công mạnh mẽ. Quân Tào chiếm lĩnh hơn 10 thành, sau đó đánh bại quân Đào Khiêm ở Bành Thành, chém hơn 1 vạn quân Từ châu, nước sông Tứ Thủy vì vậy không chảy được
Đào Khiêm rút vào thành Đan Dương cố thủ, sai người đi cầu cứu thứ sử Thanh châu là Điền Khải. Điền Khải lúc đó đang bị Viên Thiệu đánh, đã cầu cứu tướng giữ Bình Nguyên làCông Tôn Toản - người có mâu thuẫn với Thiệu. Toản sai Lưu Bị cùng Quan Vũ và Trương Phi đi cứu Thanh châu. Nghe Đào Khiêm cầu cứu, Khải lại sai Lưu Bị cầm quân đi cứu Từ châu trước.
Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả đoạn Lưu Bị cứu Từ châu khá ly kỳ. Tác giả không nhắc việc Điền Khải đánh nhau với Viên Thiệu mà kể rằng Đào Khiêm cầu cứu Điền Khải và Khổng Dung; Dung sắp đi cứu lại bị quân Khăn Vàng của Quản Hợi vây đánh, lại phải cầu cứu Lưu Bị. Lưu Bị mượn quân Công Tôn Toản giải vây cho Khổng Dung rồi 2 người cùng Điền Khải đến cứu Đào Khiêm.
Lưu Bị có 4000 quân, chiêu hàng được vài ngàn nạn dân Ô Hoàn, rồi lại được Đào Khiêm cấp 4000 quân nữa, có hơn 1 vạn người, cùng Đào Khiêm thế thủ ở Đan Dương. Tào Tháo vây đánh nhiều ngày không sao phá được, bèn trút tức giận lên dân thường để trả thù cho cha. Ông ra lệnh tàn sát hơn 10 vạn người ở 5 thành Thủ Lự, Tuy Lăng, Hạ Khâu, Bành Thành, Phó Dương cùng các hương trấn sở thuộc. Không chỉ bản dân 5 thành mà nhiều người dân ở Thiểm Tây vì tránh nạn Lý Thôi, Quách Dĩ kéo về đó cũng bị hại.
Nghe tin Lã Bố đánh chiếm hậu phương Duyện châu, Tào Tháo đành mang quân trở về cứu.
Giao tranh với Lã Bố
Năm 194, Trần Cung và Trương Mạo ở Đông quận nghe tin Tào Tháo có hành động tàn sát, hại người vô tội, không phục ông nữa, quyết định phát động binh biến ở hậu phương ở Duyện châu và theo Lã Bố để chống lại ông. Lã Bố sau khi giết Đổng Trác ở Trường An, bị Lý Thôi và Quách Dĩ đánh bật khỏi kinh thành, phiêu bạt qua chỗ Viên Thuật, Trương Dương và Viên Thiệu đều không được dung nạp, bèn chạy đến quận Hà Nội. Trương Mạo và Trần Cung đón Lã Bố về tôn làm thứ sử Duyện châu, giao cho 10 vạn quân.
Lã Bố lấy Bộc Dương làm bản doanh, mang quân chiếm các thành trì của Tào Tháo ở Duyện châu. Chỉ còn 3 thành còn trung thành với Tào Tháo là Yên Thành do Tuân Úc giữ, Đông A do Cức Đê giữ và Phạm Huyện do Cận Long giữ, Lã Bố chưa đánh chiếm được.
Tào Tháo mang quân về lấy lại Duyện châu. Thấy Lã Bố chỉ chiếm lấy Bộc Dương mà không đóng quân ra các nơi hiểm yếu như Kháng Phụ, Tế Ninh và bến đò Hoàng Hà, Tào Tháo cho rằng Lã Bố vô mưu, có ý coi thường. Ông dẫn quân tấn công Bộc Dương.
Quân Tào Tháo phần đông là người Thanh châu mới theo hàng, không địch nổi quân Lã Bố. Lã Bố theo kế của Trần Cung đánh tan quân Tào ở Bộc Dương. Đại quân Tào Tháo bị thua lớn, doanh trại bị đốt cháy, bản thân ông bị bỏng cánh tay trái và suýt bị Lã Bố bắt sống. Trong bóng đêm, quân kỵ của Lã Bố đuổi đến nơi nhưng không biết mặt ông bèn hỏi Tào Tháo ở đâu, ông nhanh trí chỉ tay phía trước bảo rằng:
Người cưỡi ngựa vàng chỗ kia là Tào Tháo
Quân Lã Bố tiến lên phía trước truy đuổi, nhờ vậy Tào Tháo quay đầu chạy thoát nạn.
Sự kiện Tào Tháo gặp nguy cấp ở Bộc Dương được La Quán Trung mô tả tương tự trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhưng chiến sự lại diễn ra chủ yếu trong thành khi Lã Bố dùng mưu dụ Tào Tháo tiến vào.
Sau đó Tào Tháo thu quân trở lại, cùng Lã Bố giữ nhau hơn 100 ngày ở Bộc Dương không đánh. Đến mùa thu năm 194, ở Duyện châu có nạn châu chấu hại lúa nên bị mất mùa, cả hai bên đều bị thiếu lương. Tào Tháo phải rút quân về Yên Thành, còn Lã Bố thu quân về Sơn Dương
Mùa đông năm 194, Tào Tháo mang quân về Đông A. Trong tình thế khó khăn, ông định phục tùng Viên Thiệu theo lời dụ nhưng mưu sĩ Trình Dục khuyên can không nên nghe theo mà nên tự lập.
Đầu năm 195, Tào Tháo quyết định thay đổi chiến thuật đánh Lã Bố, dương đông kích tây khiến Lã Bố mệt mỏi. Ông chia quân làm nhiều ngả, một mặt điều một cánh quân đi đánh Định Đào. Lã Bố đi cứu; đến mùa hạ ông lại tấn công Cự Dã, bao vây hai tướng của Bố là Tiết Lan và Lý Phong. Trần Cung và Lã Bố mang 1 vạn quân từ Định Đào đi cứu. Tào Tháo lợi dụng địa hình dùng kế mai phục đánh bại Lã Bố trên đường rồi thúc quân lấy Định Đào. Lã Bố và Trần Cung rút quân về Đông Mân. Tào Tháo hạ thành Cự Dã, giết chết Phong và Lan. Trong khi Lã Bố và Trần Cung còn lúng túng chưa biết cử động ra sao thì Tào Tháo đã điều các cánh quân đánh chiếm các thành trì nhỏ ở Duyện châu. Lã Bố nghe tin mấy thành xung quanh bị hạ, hoang mang tột độ bèn chạy về Từ châu theo Lưu Bị.
Ở Duyện châu chỉ còn anh em Trương Mạo, Trương Siêu ở Ung Khâu và Tang Hồng ở Đông quận. Trương Mạo biết không thể chống được Tào Tháo, bèn gửi gia quyến cho Trương Siêu, sai giữ Ung Khâu, còn mình đi Thọ Xuân cầu cứu Viên Thuật. Giữa đường, Trương Mạo bị thủ hạ giết chết. Tào Tháo mang quân vây đánh Ung Khâu.
Tang Hồng được Viên Thiệu cử làm thái thú Đông quận thay Tào Tháo, sức yếu không cứu được Trương Siêu nên ngày đêm sai người đến Ký châu xin Viên Thiệu cứu Ung Khâu. Viên Thiệu nhất định không cứu Trương Siêu. Sau 4 tháng, Tào Tháo hạ được Ung Khâu, Trương Siêu tự sát. Tào Tháo giết hết gia quyến họ Trương. Tang Hồng vì việc này cũng tuyệt giao với Viên Thiệu và bị Viên Thiệu cử binh giết chết.
Tào Tháo tái chiếm được Duyện châu.
Giữ lấy thiên tử, củng cố thế lực: Rời giá về Hứa Đô
Sau khi Đổng Trác bị Vương Doãn và Lã Bố giết (192), thủ hạ là Lý Thôi và Quách Dĩ mang quân đánh báo thù, đánh chiếm Tràng An, giết Vương Doãn và đuổi Lã Bố. Hai người chia nhau nắm quyền ở Tràng An, vua Hán Hiến Đế vẫn bị khống chế như trước.
Năm 194, trong khi các chư hầu ở Sơn Đông giao tranh kịch liệt thì Lý Thôi và Quách Dĩ cũng phát sinh mâu thuẫn đánh nhau ở Tràng An. Chiến sự kéo dài sang năm 195, nhân dân bỏ kinh thành chạy, lực lượng cả hai đều bị yếu đi. Hán Hiến Đế trốn khỏi chỗ Lý và Quách cùng các cận thần chạy về phía đông. Từ đầu năm 196 đến tháng 7 năm đó, sau hành trình dài, Hiến Đế được đưa trở về Lạc Dương từng bị Đổng Trác đốt phá, ở vào hoàn cảnh rất thiếu thốn và có nguy cơ bị các chư hầu tranh đoạt.
Trong khi Hán Hiến Đế đi từ Tràng An sang Lạc Dương thì Tào Tháo lại mang quân tấn công quân Khăn Vàng ở Dự châu, đánh bại quân địch và làm chủ thêm Dự châu. Thấy ông có thực lực lớn mạnh, một vị Vệ tướng quân dưới quyền Hiến Đế ngầm sai người đến Duyện châu gọi Tào Tháo đến Lạc Dương bảo giá.
Tào Tháo lập tức sai người nghênh đón vua Hiến Đế. Vì Lạc Dương đã đổ nát, ông bèn đưa Hiến Đế đến Hứa Xương, sai xây dựng lại nơi này cho vua ở. Đây là một bước chuyển rất quan trọng trong sự nghiệp của Tào Tháo vì nhà Hán tuy suy nhưng trong lòng mọi người vẫn tôn trọng, việc Tào Tháo nắm được thiên tử sẽ có cớ nhân danh vua ban ra chính lệnh để sai khiến chư hầu.
Hán Hiến Đế đến Hứa Xương, phong Tào Tháo làm Vũ Bình hầu, giữ chức Tư không kiêm Hành Xa kỵ tướng quân. Hiến Đế vốn muốn phong cho ông chức cao hơn là Đại tướng quân nhưng vì Tào Tháo còn e ngại thế lực của Viên Thiệu, muốn tránh xung đột ngay với Thiệu, vì vậy ông đề nghị Hiến Đế phong chức Đại tướng quân cho ThiệuMưu sĩ của ông làTuân Úc được phong làm Thị trung kiêm Thượng thư lệnh, trông nom về văn thư. Phủ Tư không của Tào Tháo từ đó trở thành nơi thực sự ban ra mọi sắc lệnh của triều đình nhà Hán.
Phát triển nông nghiệp: Chiến tranh liên miên nhiều năm khiến nông nghiệp bị đình đốn, ảnh hưởng rất lớn đến việc cung cấp lương thực cho quân đội trong các cuộc giao tranh giữa các chư hầu. Trong hoàn cảnh kinh tế bị tàn phá, Tào Tháo đã nhận thức được tầm quan trọng của việc khôi phục nông nghiệp. Ngay từ khi làm chủ Duyện châu, Tào Tháo đã rất tán thành ý kiến của Mao Giới và Hàn Hạo về vấn đề này, bắt đầu mang ra thảo luận trong nội bộ.
Tư Mã Lãng đề nghị khôi phục chế độ "tỉnh điền" thời Tây Chu, Tào Tháo không tán thành vì cho đó là phục cổ, thụt lùi. Cức Đê đề xuất với Tào Tháo nên tổ chức đồn điền; sau khi thảo luận kỹ ông quyết định cho thi hành. Phương pháp của Cức Đê là chiêu mộ những nhóm nông dân đang lang thang về tập trung lại, xây dựng đồn điền. Họ sẽ được cấp nông cụ, trâubò, hạt giống để tự canh tác rồi dựa vào số thu hoạch để thu tô của họ. Nhờ áp dụng chính sách này, vùng Duyện châu mà ông cai quản có lương thực đủ dùng. Năm 194, khi đại quân Tào Tháo từ Từ châu trở về đánh Lã Bố, hoàn toàn nhờ vào thành Đông A do Cức Đê trấn thủ cấp quân lương.
Sau khi đưa Hán Hiến Đế về Hứa Đô, Tào Tháo tiếp tục thực hiện chính sách này. Ông nhân danh Hiến Đế công bố "Lệnh đồn điền", trong đó nhấn mạnh:“ Đối với thuật giữ vững quốc gia thì trước tiên phải làm cho quân đội mạnh lên và lương thực đủ ăn. Xưa nước Tần nghiêm khắc thực hiện vừa canh tác vừa tác chiến nên mới có thể thôn tính cả thiên hạ; sau Hán Vũ đế cũng dựa vào chính sách đồn điền để bình định Tây Vực. Đó là biện pháp hay mà đời trước đã làm. ”.
Ông áp dụng chính sách đồn điền trong toàn bộ vùng ông cai quản, cử Nhâm Tuấn làm Điển Nông trung lang tướng chủ quản việc chấn hưng nông nghiệp, Cức Đê làm Đồn điền đô uý, chủ quản việc xây dựng đồn điền ở Hứa Xương. Từ đó đồn điền trở thành "quốc sách" với tập đoàn họ Tào.
Chế độ đồn điền mà ông áp dụng có 2 loại: đồn điền quân sự và đồn điền dân sự
Đồn điền dân sự là hình thức chủ yếu, như mô hình đề xướng của Cức Đê: huy động nông dân mất ruộng, tù binh chiến tranh qua các cuộc xung đột; cứ 50 hộ ghép thành 1 Đồn, do Đồn điền Tư mã quản lý. Các hộ nông dân trong đồn điền gọi là Đồn điền khách, canh tác từ 30-50 mẫu ruộng, nếu dùng trâu bò của triều đình thì phải nộp 6/10, nếu dùng trâu bò của mình thì nộp 5/10. Ban đầu, việc lao động trong đồn điền bị cưỡng bách và địa vị của các Đồn điền khách rất thấp kém nên nhiều người bỏ trốn. Tào Tháo theo kiến nghị của Viên Hoán, bỏ lệnh chiêu mộ Đồn điền khách bằng cưỡng chế.
Đồn điền quân sự ra đời muộn hơn, được Tào Tháo cho áp dụng theo kiến nghị của Tư Mã Ý: Cứ cách 5 dặm có 1 đội 60 người vừa làm ruộng vừa canh phòng khu vực của mình. Người quản lý là các tướng trong quân đội.
Thực thi chính sách đồn điền đã những thành quả quan trọng. Hàng năm, khu vực Cức Đê quản lý cung cấp hàng triệu hộc quân lương. Đời sống của nông dân được giải quyết, góp phần ổn định khu vực mà ông cai quản để lo việc chinh phạt những khu vực khác.
Bá chiếm trung nguyên
Địa bàn của Tào Tháo khi đó là đất tứ chiếng nằm giữa trung nguyên, tiếp giáp với các chư hầu: phía bắc có Viên Thiệu ở Ký châu, phía tây có Hàn Toại và Mã Đằng ở Lương châu, phía nam có Trương Tú ở Nam Dương, phía đông nam có Viên Thuật ở Hoài Nam, phía đông có Lã Bố và Lưu Bị ở Từ châu.
Để làm chủ trung nguyên, Tào Tháo tính từng bước thôn tính các chư hầu. Ông tránh xung đột với Viên Thiệu là lực lượng mạnh nhất ở Hà Bắc, chủ trương diệt các lực lượng yếu trước. Ông chú tâm dẹp Trương Tú là lực lượng ở gần Hứa Xương, có khả năng uy hiếp ông; kế đó tính đến các chư hầu phương đông và đông nam. Đối với Mã Đằng và Hàn Toại ở xa, ông sai mưu sĩ Chung Do đến Tây Lương thuyết phục hai người trung thành với triều đình nhà Hán. Nhờ vậy ông có thể rảnh tay thực hiện các tính toán của mình.
Dẹp Trương Tú
Đầu năm 197, Tào Tháo đích thân mang quân tấn công Nam Dương. Trương Tú liệu thế không chống nổi nên đầu hàng. Tào Tháo vui mừng triệu tập các tướng của Tú đến uống rượu. Trong tiệc, Tào Tháo đi mời rượu, mãnh tướng Điển Vi đi cầm rìu lớn đằng sau, uy hiếp mọi người, vì vậy không ai dám ngẩng mặt nhìn ông.
Được hơn 10 ngày, Trương Tú bất mãn với Tào Tháo bèn bất ngờ dấy binh làm phản, tập kích doanh trại Tào. Sự việc quá đột ngột, ông không kịp trở tay. Quân Trương Tú sấn đến trại, lúc đó Điển Vi khỏe mạnh một mình trấn giữ, giết rất nhiều quân của Tú. Nhờ Điển Vi chẹn cửa trước nên Tào Tháo dẫn khinh kỵ bỏ chạy thoát bằng cửa sau. Điển Vi cuối cùng bị quân Trương Tú giết chết, con cả Tào Tháo là Tào Ngang cùng cháu là Tào An Dân cũng bị chết trong loạn quân.
Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Trương Tú trở mặt đánh Tào Tháo vì ông đã ăn nằm với bà thím goá họ Châu của Tú.
Tào Tháo thu quân về Hứa Xương. Rất may trong thời gian đó Viên Thuật đang tranh giành với Lã Bố ở phía đông nên không gây khó khăn gì cho ông.
Sau đó Tào Tháo lại mang quân đánh Trương Tú. Sau 2 lần giao chiến, Tú không địch nổi, bỏ chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu. Tào Tháo bèn lấy danh nghĩa Hán Hiến Đế phong choTôn Sách ở Giang Đông - địa bàn liền kề với Lưu Biểu - làm Ngô hầu, Thảo nghịch tướng quân, gợi ý Tôn Sách kiềm chế Lưu Biểu, không cho Biểu dốc toàn lực chi viện cho Trương Tú.
Sau vài năm, khi Tào Tháo tập trung lên chiến trường phía bắc với Viên Thiệu thì Trương Tú thế yếu, nhận ra việc Lưu Biểu dung nạp mình chỉ để làm vùng đệm với Tào Tháo; do đó sau khi phân tích lợi hại, Tú trở lại đầu hàng Tào. Tào Tháo chấp nhận cho Tú hàng, không kể lại thù cũ.
Thu Lưu Bị, bắt Lã Bố
Năm 195, Lã Bố bị Tào Tháo đánh thua chạy sang Từ châu nương nhờ Lưu Bị. Được một thời gian, Lã Bố cướp thủ phủ Từ châu là Hạ Bì của Lưu Bị, Bị thế yếu phải ra đóng ở Tiểu Bái, hai bên tạm hòa hoãn với nhau.
Năm 196 khi Tào Tháo nắm được Hiến Đế, Lã Bố đã sai sứ đến lấy lòng ông và xin làm Thứ sử Từ châu nhưng ông không đồng ý.
Năm 197, Viên Thuật xưng đế ở Thọ Xuânngang nhiên chống lại nhà Hán. Lã Bố muốn kết thông gia, giao con gái cho sứ của Thuật là Hàn Dận mang về Thọ Xuân. Nhưng nửa chừng thì Lã Bố đổi ý, đuổi theo cướp con lại rồi bắt Hàn Dận mang đến Hứa Xương nộp Tào Tháo. Ông bèn sai chém Hàn Dận và nhân danh Hán Hiến Đế phong Lã Bố làm Tả tướng quân.
Tào Tháo muốn đánh Viên Thuật trước, nên sai người đến giao hảo với Tôn Sách, đề nghị không chi viện cho Thuật. Sách vừa ly khai khỏi Thuật nên đồng lòng với Tào Tháo. Ông mang quân đánh Thọ Xuân, đánh cho Thuật thua to, giết chết tướng của Thuật là Kiều Dị.
Trong lúc Tào Tháo định đánh tiếp thì ở Từ châu lại có biến. Năm 198, Lã Bố muốn bá chiếm cả Từ châu, từ Hạ Bì sai bộ tướng Cao Thuận mang quân đánh Lưu Bị ở Tiểu Bái. Lưu Bị cầu cứu Tào Tháo. Ông sai Hạ Hầu Đôn đến cứu nhưng hai đạo quân không địch nổi Cao Thuận. Lưu Bị chạy về Hứa Xương nương nhờ ông.
Tháng 9 năm 198, Tào Tháo đích thân cùng Lưu Bị mang quân tới đánh Từ châu. Tháng 10 năm đó quân Tào đến Bành Thành, giết chết tướng giữ thành là Hầu Giai và lại tàn sát dân Bành Thành. Sau đó Tào Tháo tiến đến Hạ Bì, Lã Bố mang quân kỵ ra nghênh chiến. Tào Tháo bắt sống được viên mãnh tướng của Bố là Thành Quảng, Bố thua trận phải rút vào thành Hạ Bì cố thủ và sai người cầu cứu Viên Thuật và Trương Dương.
Quân Tào vây đánh 1 tháng không hạ được, bắt đầu mệt mỏi. Tào Tháo muốn lui quân nhưng Tuân Du và Quách Gia khuyên nên đánh gấp. Tào Tháo theo kế, sai quân khơi sông Nghi Thủy và sông Tứ Thủy đổ nước vào thành Hạ Bì. Thành ngập nước, Lã Bố nguy khốn phải lui dần vào trong rồi rút lên cố thủ ở lầu Bạch Môn, thế cùng lực kiệt. Viên Thuật không mang quân lại cứu.
Đúng lúc đó Trương Dương ở Hà Nội phát binh cứu Lã Bố. Nhưng Dương bị thủ hạ là Dương Xú giết chết để hàng Tào Tháo. Thủ hạ của Trương Dương là Khuê Cố giết Xú báo thù cho chủ. Tào Tháo bèn sai Sử Hoán mang quân đón đánh, giết Khuê Cố và thu hết thủ hạ của Trương Dương.
Thủ hạ của Lã Bố là Hầu Thành bị trách phạt nên oán hận, bèn trói Trần Cung và Cao Thuận mang nộp và mở cửa ra hàng Tào Tháo. Ông cùng Lưu Bị thúc quân vào. Lã Bố trên lầu Bạch Môn bị dồn vào đường cùng, phải bó tay chịu trói.
Lã Bố muốn hàng nhưng Tào Tháo theo lời khuyên của Lưu Bị, sai mang Lã Bố giết chết. Sau đó ông giết cả Cao Thuận và Trần Cung. Trong các thủ hạ của Lã Bố, ông thu dụngTrương Liêu và Tang Bá.
Tam Quốc Diễn Nghĩa chép: Ngụy Tục và Tống Hiến đồng mưu với Hầu Thành trói Lã Bố lại rồi mở cửa cho quân Tào vào.
Viên Thuật, đuổi Lưu Bị
Tào Tháo cùng Lưu Bị thu quân về Hứa Xương. Ông không trả lại Từ châu vốn của Lưu Bị được Đào Khiêm (chết năm 194) giao cho mà sai thủ hạ là Xa Trụ trấn thủ. Ông giữ Lưu Bị ở lại Hứa Xương để kiềm chế, phong làm Tả tướng quân (thay chức của Lã Bố).
Việc Tào Tháo nắm trọn quyền hành khiến quốc cữu Đổng Thừa bất mãn, có ý định trừ khử Tào Tháo. Năm 199, Đổng Thừa ngầm liên kết với Lưu Bị để hại ông. Khi chưa có cơ hội cho Đổng Thừa hành động thì Viên Thuật sức cùng lực kiệt đã bỏ Hoài Nam định lên Hà Bắc nhường ngôi cho Viên Thiệu. Tào Tháo phái Lưu Bị mang 1 vạn quân đi chặn đánh. Thuật bị thua trận phải quay trở lại và kiệt sức ốm chết.
Ạm mưu lật đổ Tào Tháo của Đổng Thừa ở Hứa Xương bị bại lộ, Thừa bị Tào Tháo giết cả họ. Tào Tháo tra ra việc Lưu Bị đồng mưu với Thừa. Cùng lúc, Lưu Bị đuổi được Thuật bèn chính thức ly khai khỏi Tào Tháo, mang quân chiếm lại Từ châu, giết chết Xa Trụ.
Tào Tháo nổi giận chia quân đi chuẩn bị đánh Từ châu. Lưu Bị biết mình thế yếu bèn sai người đi cầu cứu Viên Thiệu. Tào Tháo cũng sắp quân ở Quan Độ để chờ quân Hà Bắc. Tuy nhiên, sau một thời gian không thấy Viên Thiệu cử động, Tào Tháo quyết định đánh Lưu Bị trước. Có người khuyên ông nên cảnh giác kẻo bị hai bên địch đánh kẹp, nhưng ông quả quyết rằng Viên Thiệu trù trừ không quyết đoán sẽ không ra quân gấp để cứu Lưu Bị.
Tào Tháo gấp rút tiến đánh Từ châu. Vài vạn quân của Lưu Bị không chống nổi, bị thua tan tác. Lưu Bị bỏ chạy sang Hà Bắc theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam, gia quyến Lưu Bị đều bị bắt; Quan Vũ không có đường chạy phải đầu hàng Tào Tháo.
Tào Tháo chiếm lại Từ châu. Sau khi dẹp được 4 chư hầu Trương Tú, Lã Bố, Viên Thuật, Lưu Bị, ông đã làm chủ địa bàn rộng lớn ở trung nguyên, chính thức ở thế đối mặt với Viên Thiệu hùng mạnh ở Hà Bắc. Khi ông đánh đuổi được Lưu Bị thì Viên Thiệu vẫn chưa chính thức phát binh.
Đánh bại cha con Viên Thiệu: Trận Bạch Mã, Diên Tân
Trong khi Tào Tháo đánh dẹp các chư hầu phía nam và phía đông thì Viên Thiệu cũng tập trung tiêu diệt Công Tôn Toản ở Bình Nguyên, thôn tính U châu, Thanh châu và Tinh châu. Làm chủ địa bàn rộng lớn, có nhiều quân sĩ và hào kiệt, Viên Thiệu trở thành thế lực mạnh mẽ ở phía bắc mà Tào Tháo chưa từng dám đối địch khi mới đến Hứa Xương.
Năm 200, Lưu Bị thua trận đến chỗ Thiệu xin hàng. Thiệu bèn phát binh giao tranh với Tào Tháo. Viên Thiệu mang theo Lưu Bị đi đánh Tào Tháo, đóng đại quân ở Lê Dương, sai Trần Lâm thảo hịch kể tội ông. Bài hịch vừa điển nhã vừa hùng kiện, được coi là bài văn nổi tiếng trong văn học cổ điển.
Sau đó Viên Thiệu chia quân, một mặt đánh thành Bạch Mã, mặt khác đóng ở bến Diên Tân. Tháng 4 năm 200, Tào Tháo dẫn Trương Liêu và Quan Vũ đi cứu Bạch Mã và cũng chia quân ra Diên Tân để phân tán sự chú ý của Thiệu. Quả nhiên Thiệu tăng cường thêm quân cho Diên Tân mà không chú ý Bạch Mã. Tào Tháo nhân đó đột ngột thúc quân đánh mạnh ở Bạch Mã, sai Quan Vũ ra trận giết chết mãnh tướng của Thiệu là Nhan Lương, giải vây thành Bạch Mã.
Tháng 5 năm 200, ông cùng Quan Vũ và Trương Liêu đi men theo sông Hoàng Hà về phía tây đến cứu Diên Tân. Viên Thiệu cùng Lưu Bị và Văn Xú mang quân đuổi theo. Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu một trận nữa tại đây, giết chết Văn Xú. Vì lực lượng ít hơn địch nên sau đó ông lui quân về phía nam Tế Thủy, tức là bến Quan Độ đóng đồn, còn Viên Thiệu đóng lại ở Diên Tân.
Trận Quan Độ
Sau trận Diên Tân, hai bên tạm hưu chiến. Lưu Bị thấy Viên Thiệu không đủ tài năng để chống Tào Tháo nên bỏ đi tìm cách xây dựng lại lực lượng. Quan Vũ ở bên Tào sau khi lập công trả ơn ông cũng lẻn trốn đi tìm Lưu Bị và sau hai người tái ngộ với Trương Phi ở Nhữ Nam.
Sau vài tháng ngưng nghỉ điều quân, hai bên tái chiến trong trận thư hùng ở Quan Độ ngay từ tháng 8 năm đó, kéo dài hơn 100 ngày.
Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng sau trận Diên Tân, hai bên lại thu binh về chỗ. Tào Tháo rút về Hứa Xương, Viên Thiệu trở về Ký châu; La Quán Trung tập trung mô tả việc Quan Vũ lén đi khỏi chỗ Tào Tháo, ông còn đi ra tiễn Vũ ở Hứa Xương. Viên Thiệu còn sai Trần Chấn đến Giang Đông lôi kéo Tôn Sách liên minh đánh Tào Tháo nhưng Tôn Sách đột ngột qua đời, Tôn Quyền lên thay theo chính sách của Trương Chiêu, Gia Cát Cẩn, theo Tào mà không theo Viên. Viên Thiệu thấy sứ giả trở về không cầu được họ Tôn bèn tự mình khởi bình lần thứ hai đi đánh. Diễn biến trong tiểu thuyết khá nhiều sự kiện và thư thả nhưng trên thực tế hai bên Viên - Tào đối luỹ từ tháng 5 và cả Viên Thiệu lẫn Tào Tháo đều bám sát không rời chiến trường, tiếp tục điều động binh lực.
Bị thua và mất hai tướng, Viên Thiệu điều đại quân đến Dương Vũ, phía tây bắc Trung Mâu, men theo đồi cát dọc bờ sông, dựng vài chục doanh trại kéo dài từ đông qua tây, định triển khai hai cánh bao vây quân Tào rồi tiêu diệt.
Tào Tháo không lui binh, cũng chia quân làm nhiều nhóm chống cự, nhưng vì ít quân hơn nhiều nên không đủ phân ra các vị trí có địch.
Viên Thiệu mang quân ra khỏi luỹ, giao chiến với quân Tào. Quân Tào thua trận phải lùi lại mấy lần. Tào Tháo ra lệnh tướng sĩ cố giữ vững trận địa, quân địch khiêu chiến nhiều lần nhưng không ra đánh.
Viên Thiệu bèn bày trận trên dãy núi đất, dựng nhiều chòi gỗ, đứng trên đó bắn xuống doanh trại quân Tào. Quân Tào mỗi người phải dùng thuẫn gỗ che đỡ tên bắn. Sau đó Tào Tháo dùng xe bắn đá bắn sang, phá nát các chòi gỗ của địch.
Viên Thiệu lại cho quân đào nhiều địa đạo vào doanh trại quân Tào. Ông phát hiện bèn sai quân đào đường hầm theo chiều ngang nằm phục sẵn, hễ quân Viên đến thì bắn chết.
Hai bên giữ nhau lâu ngày, Tào Tháo sắp hết lương, muốn rút lui, bèn hỏi ý kiến Tuân Úc đang trấn thủ Hứa Xương. Tuân Úc viết thư trả lời, khuyên ông kiên trì giữ, nhất định không được rút lui, nếu không hậu quả sẽ rất xấuTào Tháo nghe theo, lệnh cho các tướng sĩ cố sức giữ thế trận.
Đánh lâu ngày không hạ được, Viên Thiệu chưa nghĩ ra kế nào khác. Thiệu sai Thuần Vu Quỳnh mang 1 vạn quân đi về nhận lương để chở ra mặt trận. Đúng lúc đó một thủ hạ của Thiệu là Hứa Du có người nhà bị tội vào ngục, xin Viên Thiệu tha không được nên bất mãn, bỏ sang hàng Tào Tháo.
Được tin báo của Hứa Du về việc Thuần Vu Quỳnh, Tào Tháo đích thân mang 5000 quân mã đuổi đến kho lương của Viên Thiệu ở Ô Sào. Đang đêm, quân Tào bất ngờ tập kích, Nhạc Tiến chém chết Quỳnh. Tào Tháo đốt sạch kho lương của Viên Thiệu. Trong hơn 1 vạn quân của Quỳnh thì hơn 1000 bị giết, số còn lại đầu hàng. Tào Tháo sai cắt hết mũi xác chết, lưỡi của bò ngựa giao cho quân đầu hàng mang về doanh trại Viên Thiệu để uy hiếp tinh thần, làm nhụt ý chí quân địch.
Viên Thiệu thấy lửa cháy từ xa, biết tin Ô Sào bị đánh, một mặt điều quân cứu Quỳnh, mặt khác sai Trương Cáp, Cao Lãm đi cướp doanh trại Tào. Nhưng Tào Tháo đã bố trí quân phòng bị trước, đúng như dự liệu của Cáp và Lãm. Cáp và Lãm không hạ được trại Tào, lại nghe tin Tào Tháo phá tan Ô Sào trở về, bèn quyết định đầu hàng ông.
Viên Thiệu liên tiếp nghe tin thua trận, kho lương bị mất, tướng sĩ náo loạn, kéo nhau bỏ chạy. Tào Tháo thừa cơ dẫn quân tập kích khiến quân Thiệu đại bại tan nát. Thiệu hốt hoảng, cùng con là Viên Đàm dẫn 800 quân kỵ chạy một mạch, qua sông Hoàng Hà mới dám dừng lại nghỉ.
Hơn 7 vạn quân của Viên Thiệu không theo kịp chủ, đều xin hàng Tào Tháo. Trong số đó có một vài người không hoàn toàn quy thuận, có biểu hiện trá hàng. Tào Tháo sợ phát sinh hậu hoạ bèn ra lệnh chôn sống cả 7 vạn hàng binh
Những diễn biến chính của trận Quan Độ như dựng chòi, đào địa đạo, cướp lương Ô Sào... được Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả khá sát với sử sách.
Trừ anh em họ Viên: Sau một thời gian ngơi nghỉ, Tào Tháo mang quân truy kích Viên Thiệu. Tháng 4 năm 201, hai bên gặp nhau ở Thương Đình (ven sông Hoàng Hà). Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu một trận lớn nữa. Viên Thiệu thu quân về, tinh thần suy sụp, mắc bệnh nằm một chỗ.
Trong lúc họ Viên suy yếu, Tào Tháo kịp mang quân về Hứa Xương (tháng 6 năm 201) rồi điều quân tấn công Lưu Bị đang liên kết với tướng Khăn Vàng là Cung Đô ở Nhữ Nam. Ban đầu ông sai Sái Dương đi đánh nhưng Dương bị Lưu Bị giết chết. Tào Tháo bèn tự cầm đại quân đi đánh. Quân Tào giết chết Cung Đô, Lưu Bị không chống nổi, phải bỏ chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu.Tam Quốc Diễn Nghĩa kể việc Sái Dương do Quan Vũ giết trong quá trình "qua 5 ải chém 6 tướng" sau khi chia tay Tào Tháo trước trận Quan Độ.Lúc quay về gặp Trương Phi,Quan Vũ bị Trương Phi nghi ngờ theo hàng Tào.Do đó,nhân lúc Sái Dương vừa đến,Quan Vũ đã giết chết.Trương Phi không còn nghi ngờ gì về ông.
Tạm yên mặt nam, Tào Tháo quay trở lại đánh Hà Bắc. Tháng 5 năm 202, Viên Thiệu ốm không khỏi, qua đời. Khi quân Tào sắp đánh, các con Viên Thiệu là Viên Đàm (con cả) và Viên Thượng (con thứ 3) chia nhau chống giữ. Tào Tháo đánh Viên Đàm ở Lê Dương từ tháng 2 đến tháng 9 năm 203 không hạ được.
Nắm được nội tình anh em họ Viên đang tranh giành quyền thừa kế, Tào Tháo bèn rút đại binh để Đàm và Thượng đánh nhau, tự suy yếu lực lượng. Quả nhiên hai anh em mang quân đánh nhau, Viên Đàm bị thua chạy lên Bình Nguyên. Tào Tháo bèn mang đại quân trở lại, để chia rẽ họ Viên, ông lấy danh nghĩa cứu Viên Đàm. Viên Thượng hoảng sợ bỏ đánh Bình Nguyên rút về Nghiệp Thành, hai tướng của Thượng là Lã Khoáng, Lã Tường đầu hàng ông. Sau khi hứa kết thông gia với Viên Đàm, ông lại rút về nam cho anh em họ Viên đánh nhau. Nội tộc họ Viên lại tái chiến.
Đầu năm 204, Tào Tháo mang quân đánh Nghiệp Thành. Lúc đó Thượng lên Bình Nguyên đánh Đàm chưa về, thành do Thẩm Phối giữ. Quân Tào tấn công không nổi. Tháng 5 năm đó, Tào Tháo sai đào một hào lớn, dẫn nước sông Chương Hà vào thành. Nghiệp Thành bị nước bao vây cô lập, đến tháng 8 thì dân trong thành chết đói quá nửa.
Viên Thượng nghe tin vội về cứu, Tào Tháo điều quân chặn đánh. Quân của Thượng tan vỡ, các tướng dưới quyền chạy sang hàng Tào. Thượng bỏ chạy về Trung Sơn. Thẩm Phối vẫn kiên cường phòng thủ, sai người mang nỏ cứng ra ngoài thành, phục ở chỗ Tào Tháo hay đi tuần qua, có lần ông suýt bị nỏ bắn trúng. Nhưng sau đó cháu Phối là Thẩm Vinh phản họ Viên, mở cửa thành cho quân Tào. Tào Tháo hạ được thành, dụ hàng Thẩm Phối không được bèn sai mang chém để bảo toàn danh tiết cho Thẩm Phối.
Trong khi đó họ Viên vẫn đánh lẫn nhau. Viên Đàm đến Trung Sơn đánh Thượng, chiếm luôn Ký châu. Thượng bỏ chạy tới U châu theo anh hai là Viên Hy.
Tào Tháo gửi thư tuyên bố cắt đứt thông gia với Viên Đàm, trả lại con gái Đàm và tiến đánh Bình Nguyên. Đàm bỏ chạy về Nam An. Tháng 1 năm 205, Tào Tháo tiến đánh Nam An. Đàm bị thủ hạ giết chết để hàng Tào.
Anh em Viên Hy, Viên Thượng ở U châu không lâu thì thủ hạ của Hy là Tiêu Xúc, Trương Nam làm phản, hai anh em phải bỏ chạy sang Liêu Tây, nương nhờ thủ lĩnh Ô Hoàn là Đạp Đốn. Tháng 10 năm 205, Tào Tháo mang đại quân tấn công Liêu Tây, đánh đuổi bộ lạc Ô Hoàn ở 3 bộ Liêu Tây, Liêu Đông và Hữu Bắc Bình ra khỏi Trường Thành. Anh em Hy và Thượng cùng Đạp Đốn chạy sang Liêu Đông với Công Tôn Khang.
Cháu Viên Thiệu là Cao Cán trấn thủ Tinh châu, trước nghe tin họ Viên bại trận bèn đầu hàng Tào Tháo. Thấy ông đi đánh Ô Hoàn, Cán lại làm phản. Tháng 1 năm 206, ông dẫn quân trở về đánh Cán. Cán thua chạy đi cầu cứu Hung Nô không được, trở về đến Thượng Lạc thì bị giết.Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Cao Cán là con rể của Viên Thiệu.
Đầu năm 207, anh em họ Viên đến Liêu Đông. Tào Tháo đi chiêu hàng đến Liễu Thành (Liêu Tây), không mang quân truy đuổi anh em họ Viên đến Liêu Đông. Ông đoán biết nếu tiến đánh, Công Tôn Khang sẽ liên hợp với họ Viên, vì vậy ông chủ ý lui quân về phía nam, tỏ ý không truy bức, Khang sẽ thanh trừng họ Viên.
Tào Tháo không chờ động tĩnh từ phía Khang mà chủ động rút lui khỏi Liễu Thành về nam trong hoàn cảnh rất gian khổ. Khi đó ở phía bắc rất lạnh, quân đội của ông bị rét cóng; toàn quân đi 200 dặm không có nước; sau đó phải đào giếng sâu tới 39 trượng mới có nước. Lương thực hết, quân Tào phải giết ngựa chiến để ăn. Quân Tào ăn hết vài ngàn con ngựa mới về tới khu vực có lúa của người Hán. Các nhà sử học Trung Quốc nêu giả thiết, nếu anh em họ Viên biết được tình cảnh thê thảm đó của quân Tào mà dẫn tàn quân truy kích thì chưa biết tình hình sẽ ra sao.
Đúng như dự liệu của Tào Tháo, Công Tôn Khang lập tức bắt chém anh em Hy, Thượng và Đạp Đốn ngay lúc đến ra mắt, sai người mang 3 thủ cấp nộp Tào Tháo - khi đó ông đã về đến Nghiệp Thành. Ông phong chức Tương Bình hầu cho Khang để thưởng công.
Nam tiến
Sau khi diệt họ Viên, Tào Tháo hoàn toàn làm chủ trung nguyên, trở thành lực lượng mạnh nhất Trung Quốc khi đó. Ông tiến hành cải cách triều đình Đông Hán, khôi phục lại chức Thừa tướng và tự mình đảm nhiệm, đưa hàng loạt người thân tín nắm những chức vụ quan trọng trong triều đình cũng như những nơi hiểm yếu.
Các lực lượng chư hầu có địa phận liền kề với ông khi ông mới về Hứa Xương đều đã bị dẹp. Khi đó trong toàn quốc còn lại Lưu Biểu và Lưu Bị ở Kinh châu, Tôn Quyền ở Giang Đông, Trương Lỗ ở Đông Xuyên, Lưu Chương ở Tây Xuyên, Hàn Toại và Mã Đằng ở Tây Lương. Tào Tháo quyết định nam tiến diệt Lưu Biểu và Tôn Quyền là những lực lượng đáng kể nhất trong số các chư hầu còn lại.
Lấy Kinh châu
Lưu Bị từ khi thua Tào Tháo ở Nhữ Nam chạy về Kinh châu theo Lưu Biểu, được sai trấn giữ ở Tân Dã.
Tháng 7 năm 208, Tào Tháo khởi binh nam tiến, đánh Kinh châu. Tháng 8 năm đó, khi quân Tào chưa đến nơi thì Lưu Biểu đã ốm chết. Tháng 9, Tào Tháo tiến đến Tân Dã. Lưu Bị từ khi nghe tin đại quân Tào Tháo kéo đến đã bỏ Tân Dã về Phàn Thành.
Quân Tào áp sát, con nhỏ của Lưu Biểu là Lưu Tông - người được quyền thừa kế - sợ hãi đầu hàng Tào Tháo. Lưu Bị nghe tin Lưu Tông đầu hàng bèn mang hơn 10 vạn dân chạy đến Giang Lăng - nơi chứa lương thảo và vũ khí của Kinh châu - để thế thủ. Tào Tháo chọn 5000 quân kỵ khoẻ ngày đêm đuổi theo, một ngày đi 300 dặm. Khi quân Tào tới Đương Dương - Tràng Bản thì bị mãnh tướng Trương Phi đánh chặn, tạm thời phải dừng lại.
Vừa lúc đó sứ giả của Tôn Quyền là Lỗ Túc đến Tràng Bản, gặp được Lưu Bị. Theo lời khuyên của Lỗ Túc, Lưu Bị quyết định liên minh với Tôn Quyền để chống Tào, sai Gia Cát Lượng sang Đông Ngô; bản thân Lưu Bị hợp binh với Quan Vũ về cố thủ ở Giang Hạ với con lớn của Lưu Biểu là Lưu Kỳ.
Tào Tháo thúc quân đuổi tiếp đến Giang Lăng nhưng không thấy Lưu Bị, bèn chiếm lấy kho lương và vũ khí ở đó. Sau đó ông tập hợp đại quân chuẩn bị tiến đánh Tôn Quyền.
Thua trận Xích Bích
Tào Tháo cùng các tướng Tào Nhân, Nhạc Tiến, Tào Thuần, Lý Thông, Mãn Sủng và tướng cũ của Lưu Biểu là Văn Sính dẫn khoảng 22 vạn quânáp sát Giang Đông. Với lực lượng hùng hậu, ông tỏ ra coi thường lực lượng nhỏ yếu của Tôn Quyền, rất tin tưởng vào thắng lợi ở trận này nên không mang theo các danh tướng khác. Ông gửi thư cho Tôn Quyền nói:
Ta vâng mệnh hoàng đế, điếu dân phạt tội, tiến quân xuống nam, Lưu Tông con Lưu Biểu đã trói tay xin hàng; hiện đã chỉnh đốn 80 vạn quân thủy, chuẩn bị đánh nhau với ngươi ở Ngô quận..
Tôn Quyền liên kết với Lưu Bị, sai Chu Du mang 3 vạn quân ra phối hợp với Lưu Bị chống lại.
Thủy quân Tôn-Lưu ngược dòng Trường Giang từ Hán Khẩu-Phàn Khẩu tới Xích Bích, giao tranh với tiền quân của Tào Tháo. Quân Tào đi đường xa, không hợp thủy thổ, bị bệnh dịch hành hạ nên không thể giành được lợi thế trong những trận giao tranh nhỏ ban đầu và buộc phải lui về đóng quân ở Ô Lâm (phía Bắc Trường Giang).
Để giảm sự tròng trành của thuyền chiến (quân Tào không quen thủy chiến hay bị say sóng), Tào Tháo ra lệnh dùng xích sắt nối nhiều thuyền lại với nhau. Quan sát động thái này của Tào Tháo, tướng Hoàng Cái bên Đông Ngô kiến nghị Chu Du dùng kế trá hàng và được Chu Du tán đồng. Hoàng Cái sai người gửi thư trá hàng và Tào Tháo tin theo.
Theo thời gian đã hẹn, đội "hàng binh" của Hoàng Cái đến giữa sông thì các hỏa thuyền bắt đầu được châm lửa và chúng theo gió Đông Nam lao thẳng vào hạm đội của quân Tào. Các thuyền chiến của Tào Tháo nhanh chóng bắt lửa khiến một số lớn binh mã chết cháy trên thuyền hoặc chết đuối dưới sông. Trong lúc quân Tào đang hoảng hốt vì đám cháy thì liên quân Chu Du đã chiếm lĩnh trận địa và chia cắt lực lượng của Tào Tháo, buộc ông phải ra lệnh rút lui sau khi phá hủy một phần số thuyền chiến còn lại.
Tào Tháo cùng bại binh rút lui về phía đường cái Hoa Dung xuyên qua vùng đầm lầy lớn phía Bắc hồ Động Đình. Chu Du và Lưu Bị không ngừng đuổi theo ông cho tới tận Nam Quận. Cuối cùng, thiệt hại nặng nề khiến Tào Tháo phải bỏ miền Nam rút về Nghiệp Quận, để lại Từ Hoảng và Tào Nhân giữ Giang Lăng, Nhạc Tiến giữ Tương Dương và Mãn Sủng giữ Đương Dương.
Củng cố thế đứng phương bắc
Bài Thủ sắc
Sau trận Xích Bích, về cơ bản thế đứng của ba họ Tào, Tôn và Lưu khá vững, lực lượng khá cân bằng nên Tào Tháo không còn thời cơ nam tiến thuận lợi để thống nhất Trung Hoa như trước nữa. Thế chân vạc hình thành.
Trong khi Tôn Quyền và Lưu Bị ra sức giành lấy những vùng đất đai phía nam thì Tào Tháo án binh bất động trong 2 năm 209 - 210. Ông đóng quân ở Nghiệp Thành, huy động người xây đài Đồng Tước để hưởng thụ lúc tuổi già. Con thứ 4 của ông là Tào Thực vì sự kiện này mới làm bài phú Đài Đồng Tước.Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng Tào Tháo đã xây đài Đồng Tước trước trận Xích Bích với mục đích sau khi bình định Giang Đông sẽ bắt hai mỹ nhân Đại Kiều và Tiểu Kiều (vợ Tôn Sách và Chu Du) về đó hưởng lạc. La Quán Trung còn khéo léo để Gia Cát Lượng sửa vài chữ trong bài phú của Tào Thực nhằm kích động Chu Du quyết tâm đánh Tào.
Để củng cố thực lực phương bắc, ông hạ lệnh chiêu mộ nhân tài; sau đó ban bố tờ "Thủ sắc" để tự trần tình. Bài Thủ sắc đại ý nói bản ý ban đầu ông chỉ hy vọng lập chút công danh, nhưng vì gặp thời loạn nên từng bước lên địa vị Thừa tướng; "nếu không có ta thì nhà Hán đã mất". Cuối bài ông nhấn mạnh việc những người nghi ngờ ông muốn cướp ngôi nhà Hán đều là nghĩ sai; ông cũng muốn rời bỏ chức vụ hiện tại cũng không thể, vì đã kết oán với nhiều người, sợ bị hãm hại.
Để cho mọi người thấy điều mình nói không phải dối trá, ông trả lại 3 huyện 2 vạn hộ được phong, chỉ giữ lại huyện Vũ Bình 1 vạn hộ.
Chinh phạt Tây Lương
trận Đồng Quan và trận Kí Thành
Tây Lương tuy ở xa nhưng Tào Tháo luôn quan tâm đúng mức. Ngay thời Lý Thôi và Quách Dĩ cầm quyền, Hàn Toại và Mã Đằng từng mang quân đánh vào kinh thành Tràng An với danh nghĩa cứu vua Hán (194), vì vậy Tào Tháo rất cảnh giác với lực lượng này.
Trước khi ra tay đánh dẹp chư hầu ở Trung nguyên, ông từng sai Chung Do viết thư trấn an Đằng và Toại khiến hai người không gây hấn. Trước khi xuống miền nam đánh Kinh châu, năm 208, Tào Tháo đã nhân danh Hán Hiến Đế triệu Mã Đằng về Hứa Xương bổ nhiệm làm Thái uý, ngoài mặt là phong chức nhưng kỳ thực để chia cắt với Hàn Toại; đồng thời ông phong con Đằng là Mã Siêu làm Thiên tướng quân, Đô Đình hầu, cho thay cha quản lý quân đội dưới quyền.
Năm 211, Tào Tháo phái Tư Lệ hiệu uý Chung Do và Chinh tây Hộ quân Hạ Hầu Uyên đi đánh Trương Lỗ ở Đông Xuyên. Các tướng ở Tây Lương thấy ông không đánh họ ở chỗ gần mà đánh Trương Lỗ ở xa, nghi ngờ rằng Tào Tháo dùng kế "mượn đường Quắc diệt Ngu". Do đó, 10 tướng lĩnh Tây Lương gồm Hàn Toại, Mã Siêu, Hầu Tuyển, Trình Ngân, Dương Thu, Mã Ngoạn, Trương Hoành, Lương Hưng, Thành Nghi, Lý Kham cất 10 vạn quân làm phản. Mã Siêu và Hàn Toại cầm đầu trong số này, chiếm cứ Đồng Quan.
Tháng 7 năm 211, Tào Tháo đích thân mang quân đánh Mã Siêu. Đến Đồng Quan, ông bí mật phái Từ Hoảng và Chu Linh mang 4000 quân vượt bến Bồ Bản, đóng trại ở Hà Tây để chặn đường lui của Mã Siêu. Siêu bàn với Hàn Toại chia quân ra chặn ở bờ bắc ngăn quân Tào nhưng Toại không nghe theo. Siêu bèn tự mình hành động.
Tào Tháo cho đại quân vượt sông sang bờ bắc. Khi quân Tào đang qua sông thì Mã Siêu bất thần mang 1 vạn quân đến đánh úp, bắn tên đến như mưa. Người chèo thuyền của Tào Tháo bị trúng tên chết, tướng Hứa Chử một tay cầm yên ngựa che cho Tào Tháo, tay kia chèo thuyền. Cùng lúc đó Huyện lệnh Vị Nam là Đinh Phỉ sai thả hết trâu ngựa ra đường khiến quân Mã Siêu tranh nhau đi bắt, sao nhãng việc truy kích Tào Tháo. Vì vậy ông được thoát nạn, qua bờ bên kia.
Theo kế của Giả Hủ, Tào Tháo quyết định dùng kế ly gián Toại và Siêu. Ông vốn quen biết với Toại từ trước, khi ra trận gặp Toại không có mặt Siêu, ông tìm cách bắt chuyện, nói với nhau khá thân mật. Vì vậy Siêu bắt đầu nghi ngờ Toại.
Sau đó Tào Tháo lại viết thư gửi Hàn Toại, cố ý gửi nhầm bản nháp, có gạch xoá sửa chữa những chỗ quan trọng. Siêu thấy Toại có thư, đến đòi xem. Thấy thư bị gạch xoá, Siêu càng nghi ngờ là do Toại tự gạch đi.
Biết nội bộ quân Tây Lương đã nghi ngờ nhau, Tào Tháo ra quân tiến đánh. Ông dùng khinh binh nhử trước cho địch đuổi theo rồi mới dùng quân tinh nhuệ giáp công. Quân Tây Lương dao động, bị đánh đại bại. Hàn Toại bỏ chạy về Kim Thành; Mã Siêu thua chạy sang bộ lạc của người Nhung. Tào Tháo dẫn quân truy kích Siêu đến tận Yên Định nhưng chưa bắt được Siêu thì có tin Tôn Quyền mang quân đánh trung nguyên nên ông rút đại quân về phía Đông, để Hạ Hầu Uyên ở lại trấn giữ.
Năm 212, Tào Tháo về đến Hứa Xương, nhân danh Hiến Đế hạ lệnh giết chết Mã Đằng, tru di tam tộc, giết hết những người cùng họ ở kinh thành].Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng do Tào Tháo dụ Mã Đằng về kinh giết chết nên Mã Siêu mới khởi binh báo thù. Việc ông xoá thư ly gián Siêu và Toại được kể tương tự trong sử sách.
Về sau, Mã Siêu tập hợp người Khương, người Hồ quay trở lại tấn công các quận huyện Lũng Thượng trong trận Kí Thành, giết Thứ sử Lương châu là Vi Khang. Thủ hạ của Vi Khang là Dương Phụ khởi binh báo thù cho chủ, hợp binh với Hạ Hầu Uyên đánh bại Mã Siêu. Siêu phải chạy sang đầu hàng Trương Lỗ ở Hán Trung. Vùng Tây Lương cơ bản thuộc quyền kiểm soát của Tào Tháo.
Đánh chiếm Đông Xuyên
Sau trận giao tranh với Tôn Quyền bất phân thắng bại năm 213, Tào Tháo nhận thấy thế chân vạc đã vững, chưa thôn tính Giang Đông hiểm yếu được. Sang năm 214, Lưu Bị từ Kinh châu tiến vào đánh chiếm Tây Xuyên của Lưu Chương khiến ông phải gấp rút hành động. Ông dự định đánh chiếm Hán Trung (Đông Xuyên) của Trương Lỗ, sau đó xuôi theo sông Hán Thuỷ xuống phía nam đánh Ích châu để trừ Lưu Bị.
Tháng 3 năm 215, Tào Tháo xuất phát qua Trần Thương, không tiến ngay về phía nam mà trước hết ra khỏi Tản Quan phía tây trừ nốt Hàn Toại đang liên minh với vua người tộc Chi (Đê) là Đậu Mậu. Tháng 5, quân Tào đánh tan Đậu Mậu ở Hạ Trì, Hàn Toại bỏ chạy từ Kim Thành tới Tây Bìnhthì bị thủ hạ giết chết, mang đầu nộp cho Tào Tháo.Tam Quốc Diễn Nghĩa chép: Hàn Toại bị Mã Siêu nghi ngờ thông đồng với Tào Tháo, chém đứt một cánh tay, thành người tàn phế. Khi Tào Tháo đánh bại Siêu năm 211, Hàn Toại đầu hàng.
Trừ xong Hàn Toại, Tào Tháo mới quay trở lại đánh Hán Trung. Thấy quân Tào thế mạnh, Trương Lỗ muốn hàng nhưng em là Trương Vệ phản đối. Lỗ cho Vệ mang vài vạn quân ra địch.
Trương Vệ ra trấn giữ ải Dương Bình, Tào Tháo đánh 3 ngày không hạ được. Nhưng sau đó bất ngờ quân Tào chiếm được cửa ải. Sử sách chép về sự kiện này không giống nhau.
Tam Quốc Chí chép rằng Tào Tháo cho quân tập kích ban đêm và chiếm được ải. Ngụy Tấn thế ngữ chép rằng: Tào Tháo nản chí muốn lui binh, Quách Kham khuyên nên kiên trì; đúng đêm hôm đó có chuyện phát sinh bất ngờ: hàng ngàn con hươu tràn vào trại quân Trương Vệ nên quân Vệ náo loạn; cùng lúc đó tiền quân của Tào Tháo lại đi lạc đường, tiến vào trại của Vệ. Viên trung hộ quân của Tào Tháo là Cao Tộ sợ quân chạy rải rác trong trại địch sẽ bị tiêu diệt, vội gióng trống thổi tù và làm hiệu; không ngờ điều đó khiến Trương Vệ sợ hãi, tưởng quân Tào đã vào đông nên hốt hoảng bỏ chạy, sau bị quân Tào bắt giết.
Nghe tin Trương Vệ thua trận, Trương Lỗ muốn hàng nhưng lại nghe theo thủ hạ Diêm Phố khuyên, chưa hàng ngay mà chạy ra núi Đại Ba, dựa vào các thủ lĩnh bộ tộc cố thủ, sau đó mới sai người đến xin Tào Tháo xin giảng hoà. Trước khi đi, Trương Lỗ không nghe theo lời khuyên đốt kho tàng khiến quân Tào đói mà khoá hết kho tàng, niêm phong lại.
Tào Tháo khen ngợi việc Trương Lỗ không đốt kho tàng, chấp nhận cho Trương Lỗ đầu hàng, phong làm Trấn Nam tướng quân, Lãng Trung hầu; 5 con trai của Lỗ và Diêm Phố cũng được phong làm liệt hầu. Sau đó ông còn kết thông gia với Trương Lỗ, lấy con gái Lỗ cho con trai mình.
Tướng Tây Lương cũ là Mã Siêu bất mãn với Trương Lỗ đã bỏ sang Tây Xuyên theo hàng Lưu Bị từ trước, bộ tướng của Siêu là Bàng Đức ốm nằm lại Đông Xuyên nên lúc đó theo hàng Tào Tháo.
Thấy quận Hán Trung rộng lớn, ông chia làm 3: Trung tâm vẫn gọi là Hán Trung, đặt thêm 2 quận Tây Thành và Thượng Dung. Ông để Hạ Hầu Uyên tổng quản trấn thủ cả 3 quận, có thêm Trương Cáp và Đỗ Tập trợ giúp, còn mình cất đại quân về Nghiệp Thành. Hai viên chủ bạ là Tư Mã Ý và Lưu Hoa đã khuyên ông nên thuận đường đánh sang Tây Xuyên, chiếm Ích châu khi Lưu Bị chưa vững chân nhưng Tào Tháo không nghe theo, bỏ mất cơ hội tốt.
Trong khi Tào Tháo đánh chiếm Hán Trung thì tướng Trương Liêu được ông sai trấn thủ Hợp Phì đã tự mình đẩy lui được 10 vạn quân của Tôn Quyền đến xâm phạm trong trận Hợp Phì.
Có ý kiến cho rằng Tào Tháo bỏ cơ hội đánh Tây Xuyên vì ông không đánh giá cao tài năng quân sự của Lưu Bị và trở về để lo dọn đường cho việc xưng vương.
Xưng vương
Ban đầu, Tào Tháo được Hán Hiến Đế phong làm Vũ Bình hầu, ăn lộc 1 vạn hộ ở huyện Vũ Bình. Sau trận Xích Bích, Tào Tháo chú trọng xây dựng Nghiệp Thành là thủ phủ cũ của Viên Thiệu, thường đóng đại quân tại đây, ít coi trọng Hứa Xương như thời kỳ đầu.
Do tự mình chuyên quyết việc triều đình, ông đã gặp phải sự chống đối ngấm ngầm từ các lực lượng ủng hộ Hán Hiến Đế. Tuy nhiên, các lực lượng này không đủ mạnh và bị Tào Tháo đàn áp thẳng tay, kể cả những người thân thích của Hiến đế cũng bị giết như: Phục hoàng hậu, Đổng Quý phi, Đổng Thừa, Phục Hoàn.
Năm 213, ông ép Hiến Đế phong mình làm Ngụy Công, ban cho Cửu tích gồm: xe ngựa, y phục, nhà son, đội nhạc, nạp bệ, cung tên, hổ bôn, việt vàng. Ông cắt Ngụy quận và 9 quận khác ở Ký châu vào lãnh thổ nước Ngụy làm đất ăn lộc. Nước Ngụy của Tào Tháo với tư cách là một nước chư hầu nằm trong lãnh thổ nhà Hán bắt đầu hình thành.
Tháng 11 năm 213, ông thiết lập một bộ máy triều đình nước Ngụy riêng biệt, có Thượng thư lệnh, Thị trung và 6 viên khanh.
Năm 216, sau khi đánh bại Trương Lỗ trở về, Tào Tháo sai Hoa Hâm chuẩn bị và ép Hán Hiến Đế ra chiếu phong mình làm Ngụy Vương. Ông lập con thứ hai là Tào Phi làm thế tử.
Mất Hán Trung
Tào Tháo giao Hán Trung cho Hạ Hầu Uyên, Trương Cáp và Đỗ Tập trấn giữ. Năm 216, Trương Cáp mang quân vượt núi Đại Ba, tiến sâu vào 2 quận Ba Đông, Ba Tây, dời vài vạn dân về Hán Trung. Khi Cáp tiến đến Đãng Cừ[thì gặp quân của Lưu Bị do Trương Phi chỉ huy chặn lại. Hai bên giữ nhau 50 ngày, cuối cùng Cáp bị Trương Phi đánh bại, chạy về Nam Trịnh. Nghe tin Trương Cáp bại trận, Tào Tháo không trị tội, vẫn phong làm Đãng khấu tướng quân để khuyến khích.
Tháng 11 năm 217, Lưu Bị sai Trương Phi đóng đồn ở Cố Sơn, Ngô Lan đóng ở Hạ BịTào Tháo sai Tào Hồng và Tào Hưu ra đối địch. Hồng và Hưu không mắc mưu theo tin đồn của địch, đánh bại Ngô Lan khiến Trương Phi phải rút lui khỏi Cố Sơn. Lan bỏ chạy và bị người tộc Chi giết chết.
Nghe tin bại trận, Lưu Bị cùng mưu sĩ Pháp Chính khởi 10 vạn quân, kéo đến ải Dương Bình. Quân Tào giữ ải yếu nên không giữ nổi.
Đầu năm 219, Lưu Bị qua sông Miện Thuỷ, dựa vào sườn núi Định Quân đóng quân. Hạ Hầu Uyên không biết là kế, mang toàn quân đến vây đánh, bị phục binh của tướng Hoàng Trungtừ trên núi đổ xuống đánh ngang sườn. Uyên và Thứ sử Ích châu là Triệu Ngung cùng tử trận. Lưu Bị chiếm được Hán Trung.
Ngụy vương Tào Tháo được tin, đích thân mang đại quân từ Tràng An qua hang Tà Cốc vào Xuyên để quyết chiến. Lưu Bị giữ thế phòng thủ không ra giao chiến. Qua hơn 1 tháng khiêu chiến không đánh được trận nào, quân Tào mệt mỏi. Lưu Bị lại sai người lọt vào hàng ngũ quân Tào làm nội ứng, phao tin đồn khiến quân Tào chán nản.
Tào Tháo lúc đó tuổi đã cao, sức lực không còn tráng kiện; ông liệu thế không thể thắng được Lưu Bị, đành hạ lệnh lui quân. Trước khi rút lui, ông nói với các tướng:“ Ta vốn không tin là Lưu Bị có tài cán tới như thế. Nhưng bên cạnh y hiện đã có người tài (chỉ Pháp Chính). ”
Các sử gia Trung Quốc đánh giá câu nói này là lời tự trấn an tinh thần cho mình theo kiểu A.Q.
Tào Tháo không những triệt thoái khỏi Hán Trung, mà lệnh cho các cánh quân trong 3 quận Tây Thành và Thượng Dung mà ông mới đặt ra cùng rút về. Quận Thượng Dung và Tây Thành đầu hàng Lưu Bị. Toàn Đông Xuyên mà Tào Tháo đánh chiếm năm 215 mất về tay Lưu Bị.Tam Quốc Diễn Nghĩa mô tả Tào Tháo và Lưu Bị giao tranh ở Hán Trung có khá nhiều trận đánh. Tào Tháo bị Ngụy Diên bắn gãy răng cửa.
Mặt trận phía đông và phía nam
Từ sau trận Xích Bích, địch thủ mà Tào Tháo giao tranh tại chiến trường phía đông chủ yếu là Tôn Quyền chứ không phải Lưu Bị, dù không phải lần giao tranh nào ông cũng trực tiếp ra trận.
Năm 209, Tôn Quyền sai Chu Du tấn công ráo riết vào Giang Lăng, buộc Tào Nhân phải bỏ thành này chạy về Tương Dương. Năm 213, Tào Tháo đích thân dẫn liên quân thuỷ lục giao tranh với Tôn Quyền tại cửa Nhu Tu bất phân thắng bại. Sang năm sau, hai bên đánh nhau một trận nữa ở Nhu Tu cũng không ngã ngũ. Năm 214, quân Đông Ngô chiếm được Hoãn ThànhNăm 215 khi Tào Tháo đi đánh Trương Lỗ, Tôn Quyền đánh Hợp Phì bị Trương Liêu đẩy lui. Năm 216, Tào Tháo phát động quân thuỷ và quân bộ ồ ạt từ Cư Sàoấn công nhưng đến tháng 3 sang năm 217 vẫn không hạ được, phải lui về bắc.
Trong nhiều năm, Tôn Quyền và Lưu Bị duy trì sự liên kết để chống lại ông, giữ thế chân vạc cân bằng. Nhưng sau khi Tào Tháo mất Hán Trung thì phát sinh biến cố mới.
Lưu Bị và Tôn Quyền ngoài mặt là em rể và anh vợnhưng vẫn tranh chấp nhau vùng Kinh châu mà Lưu Bị mang tiếng “mượn” lâu ngày không trả. Khi vào Tây Xuyên, Lưu Bị giao cho Quan Vũ giữ các quận Kinh châu. Để yên mặt đông, Lưu Bị phải nhân nhượng Tôn Quyền, trả cho Đông Ngô 3 quận để hoà hoãn, đổi lại Tôn Quyền cắt 2 quận cho Quan Vũ. Quan Vũ sau đó vẫn gây bất hòa với Đông Ngô khiến Tôn Quyền quyết định ngả theo Tào Tháo để lấy toàn bộ Kinh châu.
Tháng 6 năm 219, sau khi chiếm được Hán Trung, Lưu Bị xưng làm Hán Trung Vương, đứng ngang hàng với Tào Tháo. Trên đà thắng lợi, Lưu Bị sai Quan Vũ đang trấn thủ Kinh châu đem quân bắc tiến, vây hãm Tương Dương, sau đó lại vây đánh Phàn Thành do Tào Nhân trấn thủ. Phàn Thành nguy cấp. Tào Tháo ở Nghiệp Thành rất lo lắng, toan tính thiên đô, rời Hán Hiến Đế từ Hứa Xương về cùng ông ở đất Nghiệp. Nghe lời Tư Mã Ý phân tích lợi hại, Tào Tháo quyết định không thiên đô, sai Vu Cấm và Bàng Đức mang quân đi cứu Phàn Thành. Nhạc Tiến hỗ trợ Tào Nhân cố giữ lấy Thanh Nê.
Đúng lúc đó thì Tôn Quyền sai người dâng thư đến xin quy phục, giúp ông giáp công đánh Quan Vũ ở mặt đông. Tào Tháo mừng rỡ, nhưng vẫn dùng quyền thuật: một mặt ông nhận cho Tôn Quyền đầu hàng, phong làm Nam Xương hầu, lĩnh chức Kinh châu mục; mặt khác ông lại mang thư đầu hàng của Quyền buộc vào tên, sai quân bắn vào trại của Quan Vũ. Việc làm đó của ông đẩy Quan Vũ và Tôn Quyền vào thế không đội trời chung khiến ông có thể ngồi nhìn hai bên đánh nhau mà vẫn có thể giải vây cho Phàn Thành, giữ yên được mặt nam.
Tuy nhiên, Quan Vũ không hoàn toàn tin vào thư đó, cho rằng Tào Tháo lắm mưu mô, phao tin sai để lung lạc mình. Nhân lúc nước sông Hán Thuỷ lên cao, Quan Vũ khơi nước sông đổ vào ngoài thành. Bảy đạo quân Vu Cấm và Bàng Đức đóng đồn ở phía bắc Phàn Thành bị nước dìm chết gần hết, số ít bỏ chạy thoát. Cả hai tướng đều bị bắt, Vu Cấm đầu hàng Quan Vũ, còn Bàng Đức không chịu hàng nên bị giết. Tào Tháo nghe tin đó thở dài than:Ta và Vu Cấm biết nhau 30 năm, không ngờ lúc nguy cấp thì ông ta không bằng Bàng Đức!
Viện binh cứu Phàn Thành bị tiêu diệt, Tào Tháo vội sai Từ Hoảng mang quân đi cứu. Trong khi Quan Vũ mải đánh Vu Cấm thì Tôn Quyền đã sai Lã Mông mang quân đánh úp Kinh châu.
Từ Hoảng mang quân đến cứu viện, dương đông kích tây, phao tin đánh đồn Vi Trủng nhưng kỳ thực đánh đồn Tứ Trủng. Quan Vũ mắc mưu nên bị thua nặng, quân chết rất nhiều; khi thua trận chạy về mới biết Kinh châu đã mất. Quan Vũ cùng đường chạy ra Mạch Thành, cuối cùng bị quân Tôn Quyền bắt sống mang về giết chết.
Tôn Quyền giết Quan Vũ, sai người mang đầu đến Lạc Dương nộp cho Tào Tháo. Ông không mang đầu Quan Vũ đi bêu mà sai làm lễ tang trọng thể theo nghi thức an táng chư hầu. Các nhà nghiên cứu cho rằng: Tào Tháo đã phụ nhiều người, nhưng chưa từng phụ Quan Vũ; mặt khác việc làm đó còn mang ý nghĩa chính trị không nhỏ: Tôn Quyền nộp đầu Quan Vũ cho ông để muốn thiên hạ biết rằng mình giết Vũ theo lệnh Tào Tháo, khiến Lưu Bị chĩa mũi nhọn vào ông, nhưng Tào Tháo trọng táng Quan Vũ lại cho ra thông điệp khác: Tôn Quyền tự ý giết Vũ. Tào Tháo đã giải toả được sự hiềm nghi của mọi người và ông đã lái được mũi nhọn của Lưu Bị trở lại phía Tôn Quyền. Sau này Lưu Bị vì mối thù Quan Vũ đã dốc toàn quân đi đánh Tôn Quyền.
Qua đời: Tào Tháo đã mắc bệnh đau đầu trong nhiều năm. Ông đã sai người triệu danh y Hoa Đà - là người đồng hương ở huyện Tiêu, nước Bái thuộc Dự châu - đến chữa trị. Do thuốc của Hoa Đà hiệu nghiệm, ông đã giữ Hoa Đà lại bên mình một thời gian. Những lúc bị đau, ông nhờ Hoa Đà châm cứu cho một vài mũi kim thì bệnh tình đỡ đi nhiều.
Sau này Tào Tháo có người nhà mắc bệnh, lại gọi Hoa Đà tới chữa. Được một thời gian chưa xong, Hoa Đà xin về nhà thăm vợ có bệnh, lại xin nghỉ thêm ít lâu nữa. Tào Tháo nghi ngờ, sai người đến dò xét thì thấy vợ Hoa Đà không có bệnh gì, bèn hạ lệnh bắt Hoa Đà vào ngục hỏi tội. Bị cai ngục tra tấn, Hoa Đà chết trong ngục.
Năm 219, Tào Tháo lại tái phát bệnh đau đầu. Ông giao lại bản doanh Nghiệp Thành của nước Ngụy cho thế tử Tào Phi quản lý, còn mình về Lạc Dương dưỡng bệnh. Hứa Xương lúc đó chỉ còn vua hư danh Hán Hiến Đế.
Bị bệnh đau đầu hành hạ không có ai chữa được, Tào Tháo rất ân hận vì đã giết Hoa ĐàTháng giêng năm 220, Tào Tháo qua đời, thọ 66 tuổi. Ông ở ngôi Ngụy vương được 5 năm.Tam Quốc Diễn Nghĩa kể rằng: Tào Tháo mở hộp đựng đầu Quan Vũ ra nhìn, thấy râu tóc dựng đứng lên, trừng mắt ra nhìn; vì vậy Tào Tháo hoảng sợ tới mức tái phát bệnh đau đầu. Hoa Đà được triệu đến chữa bệnh, đề nghị bổ đầu ông ra để phẫu thuật; ông nghi ngờ Hoa Đà muốn giết mình nên bắt giam Hoa Đà vào ngục. Hoa Đà chết trong ngục không lâu sau thì Tào Tháo cũng chết.
Thế tử Tào Phi lên nối ngôi Ngụy vương. Vài tháng sau, Tào Phi ép vua Hán Hiến Đế nhường ngôi, lập ra nhà Ngụy, đóng đô ở Lạc Dương. Đó là vua Ngụy Văn đế. Tào Tháo được truy tôn là Thái Tổ Vũ Hoàng Đế, thường goi là Ngụy Vũ Đế.
Mộ Tào Tháo: Tào Tháo trước khi chết đã dặn người dưới trướng của ông ngoài việc xây mộ cho ông, còn phải xây thêm 72 mộ giả (đề phòng những người có thù oán vời ông đào mộ), do đó rất khó tìm được mộ thật của ông.
X. LÃ BỐ
Lã Bố (chữ Hán: 呂布; ?-198), tự là Phụng Tiên, là tướng nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã tham gia cuộc chiến quân phiệt cuối thời Đông Hán và cuối cùng bị thất bại.
Lã Bố người đất Cửu Nguyên, huyện Ngũ Nguyên thuộc Tinh châu (nay là thành phố Bao Đầu, Nội Mông Cổ ngày nay). Ông được biết tới chủ yếu qua tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này Lã Bố được mô tả là một viên tướng dũng mãnh bậc nhất Tam quốc, có thể liên hệ với anh hùng Hy Lạp Achilles về sức mạnh. Trên chiến trường, ông chuyên sử dụng phương thiên họa kích và cưỡi ngựa Xích Thố, như một mãnh hổ tả xung hữu đột, vạn người không địch nổi. Người ta thường nói "Nhân trung Lã Bố, mã trung Xích Thố" (Người có Lã Bố, ngựa có Xích Thố) để tôn vinh hai cực phẩm nhân gian này. Ngoài ra trong những bức ảnh xưa hay ở các tác phẩm liên quan đến nhân vật này, ông được miêu tả là rất đẹp trai.
Cuối đời Đông Hán, sau khi cha Tôn Quyền là Tôn Kiên, anh ông là Tôn Sách đã chiếm cứ 6 quận Giang Đông làm căn cứ kình chống nhau giữa các phe phái quân phiệt. Tôn Sách gây dựng cơ nghiệp không lâu sau thì bị kẻ có tư thù giết hại trong một cuộc đi săn. Trước khi chết, Tôn Sách nói với những mưu thần như Trương Chiêu hãy giúp Tôn Quyền.
Tôn Quyền mới 18 tuổi đã nối chức vụ của anh mình, trở thành người thống trị tối cao ở Giang Đông. Do Tôn Quyền có tài, lại chú ý đoàn kết lực lượng các phe, nên nhanh chóng dành được uy vọng, khiến cục thế Đông Ngô ổn định trong thời hỗn loạn.
Đối ngoại
Năm 208, Tôn Quyền nghe tin Tào Tháo tiến vào Kinh Châu, lập tức phái Lỗ Túc lấy danh nghĩa viếng Lưu Biểu bị bệnh vừa mất để dò xét thực hư. Sau đó Lỗ Túc tìm gặp Lưu Bị bàn việc liên hiệp chống Tào.
Trong khi nội bộ Đông Ngô thảo luận, có người sợ uy lực Tào Tháo, đề nghị hàng Tào, bị bọn Lỗ Túc, Chu Du kiên quyết phản đối. Họ kiên trì chủ trương chống Tào, do đó củng cố quyết tâm của Tôn Quyền. Ông cử Chu Du mang 3 vạn quân ra chống Tào Tháo, bản thân mình cũng đóng quân ở Sài Tang hiệp trợ. Kết quả trong trận Xích Bích, liên minh Tôn-Lưu đại thắng quân Tào, củng cố nên thống trị của Tôn Quyền ở Giang Đông.
Mùa hạ năm 219, Tôn Quyền thừa lúc Quan Vũ dốc quân Kinh Châu đánh Tào Nguỵ ở phía Bắc giành được thắng lợi nhỏ nhặt, pháiLã Mông dẫn 2 vạn quân kéo đến đánh lấy Kinh Châu. Từ đó Đông Ngô khống chế toàn bộ phía nam sông Trường Giang, gồm Kinh châu và Dương châu.
Tháng 7 năm 221, Tôn Quyền lại phái Lục Tốn cầm quân ra chống Lưu Bị. Hai bên giằng co 7, 8 tháng. Lục Tốn dùng chiến thuật "Thành cao hào sâu", không chịu ra đấu, dùng hoả công đánh quân Thục ở Di Lăng, giành được đại thắng.
Đối nội
Năm 229, Tôn Quyền xưng đế ở Vũ Xương, lấy quốc hiệu là Ngô, sau dời đô đến Kiến Nghiệp (nay là thành phố Nam Kinh, Giang Tô).
Tôn Quyền đối nội thống trị rất nghiêm khắc, đánh thuế nhiều và nặng. Có người khuyên ông:Ra uy với kẻ tiểu nhân cần dùng hình phạt nặng, nếu đơn độc ngồi giữ Giang Đông thì binh lực hiện có cũng đủ dùng rồi, nhưng đơn độc ngồi giữ Giang Đông không khỏi là hạn hẹp, vẫn cần điều binh trước.
Do đó, Tôn Quyền hết sức phát triển xuống dải đất Đông Nam. Để mở mang miền ven. Năm 230, Tôn Quyền phái đội thuyền người, do tướng quân Vệ Ôn và Gia Cát Trực suất lĩnh ra biển, đến Di Châu (nay là Đài Loan). Đó là sự ghi chép sớm nhất, minh xác nhất trong văn hiến hiện có liên quan đến việc qua lại giữa Trung Hoa đại lục và Đài Loan. Tôn Quyền đem quân tiến về hướng Đông Nam, thúc đẩy việc mở mang một dải đất khu vực này và thực hiện dung hợp dân tộc. Tôn Quyền đã từng sai thứ sử Lục Dận sang Giao Châu (nay thuộc Việt Nam) để đàn áp cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu.
Tài năng của ông thậm chí Tào Tháo cũng phải khen ngợi: Sinh con nên như Tôn Trọng Mưu.
Năm 252, Tôn Quyền qua đời, hưởng thọ 71 tuổi. Ông được truy tôn là Ngô Đại Đế. Thái tử Tôn Lượng lên nối ngôi, nước Ngô phát sinh lục đục nội bộ và suy yếu.
Một số hình anh trong TAM QUỐC DIỄN NGHĨA
X. LÃ BỐ
Lã Bố (chữ Hán: 呂布; ?-198), tự là Phụng Tiên, là tướng nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã tham gia cuộc chiến quân phiệt cuối thời Đông Hán và cuối cùng bị thất bại.
Lã Bố người đất Cửu Nguyên, huyện Ngũ Nguyên thuộc Tinh châu (nay là thành phố Bao Đầu, Nội Mông Cổ ngày nay). Ông được biết tới chủ yếu qua tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Trong tiểu thuyết này Lã Bố được mô tả là một viên tướng dũng mãnh bậc nhất Tam quốc, có thể liên hệ với anh hùng Hy Lạp Achilles về sức mạnh. Trên chiến trường, ông chuyên sử dụng phương thiên họa kích và cưỡi ngựa Xích Thố, như một mãnh hổ tả xung hữu đột, vạn người không địch nổi. Người ta thường nói "Nhân trung Lã Bố, mã trung Xích Thố" (Người có Lã Bố, ngựa có Xích Thố) để tôn vinh hai cực phẩm nhân gian này. Ngoài ra trong những bức ảnh xưa hay ở các tác phẩm liên quan đến nhân vật này, ông được miêu tả là rất đẹp trai.
Tuổi thơ: Theo ghi chép trong các sách: “Tam Quốc Chí”, “Ngụy Thư” và “Lã Bố truyện”, cha của Lã Bố - Lã Lương – nối nghiệp tổ phụ, trấn thủ vùng biên giới. Mẹ của Lã Bố - Hoàng Thị - là con của một đại phú hào, thông minh, hiền lành, có tri thức, hiểu lễ nghĩa. Ngay từ nhỏ, Lã Bố đã thể hiện là một đứa trẻ có sức mạnh phi thường, luôn giành chiến thắng trong những “trận đấu” với bạn bè đồng trang lứa. Hệ quả, không ai dám chơi đùa với Lã Bố. Lớn lên, Lã Bố được gia đình cho học văn, vẽ tranh và tập võ. Nhưng sở thích lớn nhất của ông vẫn là côn quyền, cung tên, đao kiếm và luôn muốn cho mọi người thấy mình dũng mãnh đến nhường nào. Sử sách Trung Quốc ghi lại rằng năm 11 tuổi Lã Bố đã đánh bại đại lực sĩ nổi tiếng trong dòng tộc. Sau sự kiện đó, cả quận Ngũ Nguyên đều biết đến cái tên thiếu niên anh hùng Lã Bố.
Dưới quyền Đinh Nguyên
Theo ghi chép trong lịch sử vào năm Hi Bình thứ năm (năm 176), bộ lạc Tiên Ti (một dân tộc cổ ở miền bắc Trung Quốc) phát động chiến tranh chống Đông Hán. Lã Bố theo cha rút xuống phía nam, đến đất Sơn Tây. Khi đó thứ sử Tinh châu là Đinh Nguyên lĩnh chức Kị đô úy, đóng ở Hà Nội bèn bổ nhiệm Lã Bố làm chủ bạ, luôn coi ông là người thân tín.Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, La Quán Trung kể rằng Đinh Nguyên nhận Lã Bố làm con nuôi
Năm 189, Hán Linh Đế qua đời, con là Hán Thiếu Đế Lưu Biện lên nối ngôi. Ngoại thích Hà Tiến mưu trừ hoạn quan chuyên quyền, bèn triệu tập quân các trấn. Đinh Nguyên theo lệnh dẫn quân đến Lạc Dương, Lã Bố đi theo. Sau đó Hà Tiến bị hoạn quan giết, Viên Thiệu diệt hoạn quan. Một tướng khác được Hà Tiến triệu tập là Đổng Trác cũng tiến vào Lạc Dương, tranh chấp quyền lực. Viên Thiệu yếu thế phải bỏ chạy còn Đinh Nguyên dàn quân chống lại. Trong trận này Lã Bố đã thể hiện mình là mãnh tướng dũng mãnh vô song, đánh tan quân đội Đổng Trác và làm Đổng Trác kinh hoảng phải tế ngựa bỏ chạy. Sau trận đó Đổng Trác đã họp bàn với các mưu sỹ của mình với ý định chiêu mộ Lã Bố.
Lúc đó Đổng Trác dùng kế lấy lợi lộc và ngựa Xích Thố, sai Lý Túc- 1 tướng dưới quyền của mình, đến dụ Lã Bố để ông phản lại Đinh Nguyên. Lã Bố nhận lời, nhân lúc Đinh Nguyên tin tưởng mình không phòng bị bèn bất ngờ giết chết Đinh Nguyên, mang toàn quân về hàng Đổng Trác.
Dưới quyền Đổng Trác
Đổng Trác nhận Lã Bố làm con nuôi và bổ nhiệm làm Kị đô úy. Ông trở thành người phục vụ đắc lực cho Đổng Trác.
Nhờ sức khỏe hơn người, giỏi võ nghệ và cung tên, ông được mọi người gọi là Phi tướng quân. Sau đó ông được Đổng Trác phong làm Trung lang tướng, tước Đô đình hầu.
Viên Thiệu triệu tập chư hầu chống lại Đổng Trác. Tướng Tôn Kiên ở Ngô quận hưởng ứng, mang quân tấn công Trác. Đổng Trác sai Lã Bố và Hồ Chẩn ra đánh. Lã Bố và Hồ Chẩn bất hòa, vì vậy bị Tôn Kiên đánh bại phải rút chạy về. Đổng Trác mang vua Hiến Đế bỏ Lạc Dương chạy vào Tràng An, chỉ để bộ tướng Từ Anh và Ngưu Phụ ở lại chống giữ, còn Lã Bố đi theo vào Tràng An.Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Lã Bố ra trận địch với quân chư hầu, đánh nhau cùng ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi trong trận“Tam anh chiến Lã Bố”.
Trong những lần được giao bảo vệ Trung các, Lã Bố thừa cơ quan hệ tình ái với người hầu của Đổng Trác. Ông rất lo sợ bị phát hiện.Do Đổng Trác tàn bạo, giết nhiều người và kết oán với nhiều người nên những lúc xuất hành và nghỉ ngơi thường dùng Lã Bố làm cảnh vệ. Tuy nhiên, Trác quen tính thô lỗ và nóng nảy, có lần Lã Bố đứng hầu có chút không vừa ý bèn chộp lấy cái kích phi vào ông. Lã Bố vội tránh cây kích và xin lỗi, Đổng Trác mới nguôi giận. Cũng từ đó Lã Bố hận thù Trác.
Trong hàng ngũ các đại thần nhà Hán, Lã Bố được Tư đồ Vương Doãn - người đồng hương Tinh châu - quý mến. Ông tới nhà Vương Doãn thuật việc mình bị Đổng Trác phi kích. Vương Doãn vốn đang cùng Bộc xạ Sĩ Tôn Thụy mưu giết Trác, thấy Lã Bố như vậy bèn bàn mưu cùng hành sự. Ban đầu Lã Bố còn do dự vì ông đã nhận Đổng Trác làm cha nuôi, nhưng vì Vương Doãn lựa lời thuyết phục nên ông nghe theo.Trong Tam Quốc diễn nghĩa, La Quán Trung ghép những tình tiết này vào một, kể rằng Lã Bố bị Đổng Trác rượt đuổi và phóng kích vì bị bắt quả tang tình tự với Điêu Thuyền – ái thiếp của Trác, vốn là con nuôi trong nhà Vương Doãn. Sử sách không nhắc tới một nàng Điêu Thuyền nào giữa 3 người Vương Doãn – Lã Bố - Đổng Trác. Theo sử gia Lê Đông Phương: Hai chữ điêu thuyền vốn là tên một chức quan trong cung thời Hán. Đây không phải là tên người. Khi Đổng Trác vào cung vua hoành hành đã bắt nhiều phụ nữ mua vui, nên một a hoàn vốn là điêu thuyền của triều đình có thể có trong nhà Đổng Trác chứ không thể có trong nhà Vương Doãn. Nhân vật Điêu Thuyền có trong nhà Vương Doãn hay không điều đó không quan trọng , nhưng Lã Bố đã giết Đổng Trác vì có sự xúi giục của Vương Doãn.
Vương Doãn sai Sĩ Tôn Thụy thay mặt Hán Hiến Đế viết chiếu thư sai Lã Bố giết Đổng Trác. Tháng 4 âm lịch năm 192, Đổng Trác vào cung yết kiến vua Hiến Đế. Lã Bố trước đã lệnh cho thuộc tướng Lý Túc phục võ sĩ ở cửa Bắc Dịch chờ đợi, còn bản thân ông vẫn theo hộ vệ Đổng Trác. Khi Trác vừa vào, Lý Túc đâm luôn, nhưng Trác mặc giáp nên chỉ bị thương ngã ra đất. Trác chưa biết Lã Bố phản mình nên gọi Lã Bố đến cứu thì ông chạy thẳng tới đâm chết Trác.
Sau đó ông rút chiếu thư ra đọc, tuyên bố mình được lệnh của vua để giết Trác, vì vậy tướng sĩ dưới quyền Trác đều không dám chống lại.
Vương Doãn bổ nhiệm Lã Bố làm Phấn vũ tướng quân và phong tước Ôn hầu.Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng chức Ôn hầu của Lã Bố do Đổng Trác phong.
Mất Tràng An
Vương Doãn sai Lã Bố đi đánh dẹp con rể Đổng Trác là Ngưu Phụ đang hoành hành, chém giết nhân dân vô tội ở Trung Mâu, Dĩnh Xuyên, Trần Lưu.
Lã Bố sai Lý Túc đi đánh Ngưu Phụ nhưng Túc để thua trận chạy về Tràng An. Lã Bố bèn giết chết Túc. Ngưu Phụ thắng trận nhưng bị thủ hạ là Hồ Diệc Nhi giết chết, mang đầu đến Tràng An nộp cho Vương Doãn.
Ba bộ tướng của Ngưu Phụ là Lý Thôi, Quách Dĩ và Trương Tế cầu khẩn Vương Doãn tha tội theo Đổng Trác. Trước đó Lý Thôi và Quách Dĩ đã sát hại vài trăm người Tinh Châu - đồng hương với Vương Doãn và Lã Bố - ở trong vùng đất mình cai quản. Vì vậy Vương Doãn không đồng ý xá tội cho Lý và Quách. Lý Thôi, Quách Dĩ bèn cất quân Lương Châu nổi dậy báo thù, quân tập hợp dần dần được hơn 10 vạn, tấn công Tràng An.
Tràng An bị quân Lương Châu bao vây. Lã Bố chống cự trong 8 ngày, cuối cùng không giữ nổi. Lý Thôi thúc quân tràn vào thành. Lã Bố kịch chiến với quân Lý Thôi trên đường phố trong thành cũng không lại, phải bỏ thành chạy. Vương Doãn bị giết. Lã Bố mang theo đầu Đổng Trác, cưỡi ngựa Xích thố chạy qua cửa Vũ Quan về phía đông. Anh hùng ký chép: Quách Dĩ ở phía bắc thành. Lã Bố mở rộng cửa thành, dẫn binh tới chỗ Dĩ, nói: "Ngươi hãy tạm lui binh, chỉ mình ta và ngươi quyết thắng phụ". Dĩ và Lã Bố bèn đơn đả độc đấu, Lã Bố dùng mâu đâm trúng người Dĩ, quân kỵ của Dĩ ở phía sau liền tiến ra cứu Dĩ, Dĩ và Lã Bố hai bên đều bãi binh.
Lưu lạcXem thêm: Viên Thuật, Trương Dương, Viên Thiệu
Lã Bố chạy đến Nam Dương xin theo Viên Thuật. Viên Thuật có thù Đổng Trác giết nhiều người trong họ nhà mình ở Lạc Dương nên thu nhận và chu cấp cho Lã Bố.
Lã Bố để cho thủ hạ làm nhiều điều trái phép, cướp của cải của dân. Viên Thuật thấy vậy tỏ ý giận, không chu cấp cho Lã Bố nữa. Ông bèn bỏ Nam Dương đi một mạch dài, qua sôngHoàng Hà tới quận Hà Nội thuộc Tinh châu, theo thái thú Hà Nội là Trương Dương - người vốn từng cùng ông phục vụ dưới trướng Đinh Nguyên. Tuy Trương Dương là người tốt và có nghĩa khínhưng trong số thủ hạ của Dương lại muốn giết ông để lập công theo lệnh tầm nã của Lý Thôi (đã khống chế vua Hiến Đế) và để trả thù cho Đinh Nguyên. Lã Bố lo sợ không yên, muốn thử lòng Trương Dương, bèn nói:Triều đình Tràng An treo giải thường bắt tôi, nếu ngài chặt đầu tôi thì không bằng bắt trói tôi lại mà giải đi.
Trương Dương thấy lòng tốt của mình bị nghi ngờ nên mếch lòng nói:Lời ngươi nói rất đúng
Tuy Trương Dương không hành động gì nhưng Lã Bố cảm thấy không an toàn, sau đó cùng thủ hạ lẻn trốn khỏi quận Hà Nội sang Ký châu theo Viên Thiệu.
Ông giúp Viên Thiệu đánh tướng Khăn Vàng là Trương Yên ở Thường Sơn. Yên có hơn vạn tinh binh, mấy nghìn quân kỵ. Bố có con ngựa hay gọi là Xích Thố. Tào Man truyện chép: Người bấy giờ có câu rằng: "Người thì có Lã Bố, ngựa thì có Xích Thố". Ông cưỡi ngựa Xích thố, mỗi ngày cùng vài chục thủ hạ xông thẳng vào trại địch ba bốn lần. Quân Trương Yên thua tan tác, bản thân Trương Yên nản lòng, cuối cùng nhận sự chiêu an của triều đình.
Lã Bố lập công, liên tiếp sai người giục Viên Thiệu tăng viện cho mình. Tướng sĩ dưới quyền cũng cậy công đi cướp bóc. Thấy Viên Thiệu không đáp ứng tăng viện, ông bèn xin về Lạc Dương. Viên Thiệu ngoài mặt đồng ý, phong Lã Bố làm Tư lệ hiệu úy, nhưng sau lưng lại dặn các tướng thừa cơ giết ông.
Lã Bố đoán biết Viên Thiệu nghi ngờ mình, nên sắp đặt kế thoát thân. Ban đầu ông giả cách ngồi trong trướng gảy đàn tranh, nhưng sau đó đưa đàn cho người khác gảy tiếp để lừa thủ hạ của Viên Thiệu, còn ông thì bí mật nhân trời tối lẻn chạy trốn. Một lúc sau thủ hạ của Viên Thiệu đi thám thính nghe tiếng đàn tắt tưởng Lã Bố đã ngủ bèn đi báo cho các tướng của Viên Thiệu. Các tướng ập đến mới biết bị lừa. Viên Thiệu nghe tin báo không giết được ông bèn sai người đuổi theo, nhưng những người đuổi theo đều không địch nổi Lã Bố, bị đánh phải quay trở về.
Cùng đường, ông lại đành phải tìm đến chỗ Trương Dương. Trương Dương không nhắc lại việc trước đây Lã Bố ra đi không từ biệt, cho ông quay trở lại. Trên đường đi, ông qua quận Trần Lưu và được thái thú Trương Mạc - người từng hội binh đánh Đổng Trác – đón rước và kết giao với nhau.
Giao tranh với Tào Tháo
Địa bàn của Trương Mạc vốn thuộc Duyện châu của Tào Tháo đang có thế lực hùng mạnh. Năm 193, Tào Tháo nghi ngờ châu mục Từ châu là Đào Khiêm giết cha mình, bèn mang quân đánh Từ châu. Không giết được Đào Khiêm, Tào Tháo sát hại rất nhiều người dân vô tội ở Từ châu.
Trương Mạc cùng Trần Cung giận Tào Tháo tàn bạo, bèn cùng nhau tôn Lã Bố làm thứ sử Duyện châu, giao cho 10 vạn quân đánh Tào Tháo. Em Trương Mạc là Trương Siêu cũng giúp binh lương cho Lã Bố.
Lã Bố lấy Bộc Dương làm bản doanh, mang quân chiếm các thành trì của Tào Tháo ở Duyện châu. Chỉ còn 3 thành còn trung thành với Tào Tháo là Yên Thành, Đông A và Phạm Huyện, Lã Bố chưa đánh chiếm được.
Tào Tháo phải bỏ Từ châu, mang quân về lấy lại Duyện châu. Lã Bố chiếm lấy Bộc Dương mà không đóng quân ra các nơi hiểm yếu như Kháng Phụ, Tế Ninh và bến đò Hoàng Hà, Tào Tháo cho rằng Lã Bố vô mưu, có ý coi thường, dẫn quân tấn công Bộc Dương.
Quân Tào Tháo phần đông là người Thanh châu mới theo hàng, không địch nổi quân Lã Bố. Lã Bố theo kế của Trần Cung đánh tan quân Tào ở Bộc Dương. Đại quân Tào Tháo bị thua lớn, doanh trại bị đốt cháy, bản thân Tào bị bỏng cánh tay trái và suýt bị Lã Bố bắt sống.Sự kiện Tào Tháo gặp nguy cấp ở Bộc Dương được La Quán Trung mô tả tương tự trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhưng chiến sự lại diễn ra chủ yếu trong thành khi Lã Bố dùng mưu dụ Tào Tháo tiến vào.
Sau đó Lã Bố và Tào Tháo giữ nhau hơn 100 ngày ở Bộc Dương không đánh. Đến mùa thu năm 194, ở Duyện châu có nạn châu chấu hại lúa, cả hai bên đều bị thiếu lương. Tào Tháo phải rút quân về Yên Thành, còn Lã Bố thu quân về Sơn Dương.
Đầu năm 195, Tào Tháo quyết định thay đổi chiến thuật đánh Lã Bố, dương đông kích tây khiến Lã Bố mệt mỏi. Tào Tháo chia quân làm nhiều ngả, một mặt điều một cánh quân đi đánh Định Đào. Lã Bố đi cứu; đến mùa hạ lại tấn công Cự Dã, bao vây hai tướng của Lã Bố là Tiết Lan và Lý Phong. Trần Cung và Lã Bố mang 1 vạn quân từ Định Đào đi cứu. Tào Tháo lợi dụng địa hình dùng kế mai phục đánh bại Lã Bố trên đường rồi thúc quân lấy Định Đào. Lã Bố và Trần Cung rút quân về Đông Mân. Tào Tháo hạ thành Cự Dã, giết chết Phong và Lan. Trong khi Lã Bố và Trần Cung còn lúng túng chưa biết cử động ra sao thì Tào Tháo đã điều các cánh quân đánh chiếm các thành trì nhỏ ở Duyện châu. Lã Bố nghe tin mấy thành xung quanh bị hạ, hoang mang tột độ bèn chạy về Từ châu theo Lưu Bị.
Việc Lã Bố vội vã rút lui khỏi Duyện châu khiến anh em Trương Mạc và Trương Siêu mất chỗ dựa. Họ Trương sau đó bị Tào Tháo đánh bại giết chết.
Giảng hòa với Tào Tháo
Lưu Bị ở Từ châu đón tiếp Lã Bố, cho ở thành Tiểu Bái - một quận thuộc Dự châu.
Năm 196, trong triều đình nhà Hán ở Tràng An xảy ra loạn lạc, Hán Hiến Đế trốn khỏi sự kìm kẹp của Lý Thôi và Quách Dĩ, chạy về phía đông. Trên đường, Hiến Đế tự mình viết thư mời Lã Bố đến nghênh giá. Tuy nhiên Lã Bố vừa bị Tào Tháo đánh bại, thế lực yếu, đành viết thư sai sứ giả dâng lên Hiến Đế. Hiến Đế bổ nhiệm ông làm Bình Đào hầu. Trên đường đi, sứ giả làm rơi mất thư và chiếu phong chức ở địa phận Sơn Dương
Ngay sau đó Tào Tháo đón được Hán Hiến Đế về Hứa Xương, có danh nghĩa thiên tử để sai khiến chư hầu. Biết việc chiếu thư phong chức của Hiến Đế cho Lã Bố bị thất lạc, Tào Tháo bèn tự tay viết thư cho Lã Bố, nhờ ông đối phó với các quân phiệt Công Tôn Toản và Viên Thuật. Lã Bố bèn viết thư gửi vua Hiến Đế như sau:Thần vốn phải phụng mệnh cung nghênh xa giá nhưng biết Tào Tháo trung hiếu đã đón bệ hạ đến Hứa Xương. Trước đây thần từng cùng giao binh với Tào Tháo, nay Tào Tháo bảo vệ bệ hạ, thần là ngoại tướng, tuy muốn dẫn binh theo nhưng lại sợ sinh hiềm nghi, cho nên tạm thời chờ xử tội ở Từ châu, không dám tự quyết.
Đồng thời, ông viết thư trả lời Tào Tháo, biểu thị lòng cảm kích và thành ý hợp tác.
Trấn giữ Từ châu
Chiếm Từ châu
Để chia rẽ Lã Bố và Lưu Bị, Tào Tháo nhân danh Hiến Đế phong chức cho Lưu Bị. Lưu Bị tiếp nhận. Lã Bố thấy Lưu Bị hợp tác với Tào Tháo, sợ hai bên liên kết đối phó với mình nên bắt đầu lo lắng.
Cùng lúc đó Viên Thuật ở Dương châu mang quân tấn công Từ châu. Lưu Bị mang quân ra chống cự ở Hoài Âm. Viên Thuật viết thư cho Lã Bố giục ông đánh úp Từ châu thì sẽ tạ ơn bằng 20 vạn hộc lương. Lã Bố nghe theo, nhân lúc hai tướng giữ Hạ Bì (thủ phủ Từ châu) là Trương Phi và Tào Báo bất hòa bèn mang quân đánh úp thành. Tào Báo bị Trương Phi giết, thủ hạ là Hứa Đam và Chương Luống đến gặp Lã Bố, khuyên nhân lúc đêm tối đánh ngay thì ở trong thành sẽ làm nội ứng. Lã Bố bèn tiến quân, Hứa Đam mở cửa thành cho ông chiếm Hạ Bì.
Lưu Bị mang quân trở về định đánh chiếm lại Hạ Bì nhưng bị Lã Bố đánh bại, phải lui quân về Quảng Lăng, lại bị Viên Thuật đánh bại một trận nữa, phải chạy ra Hải Tây. Trong thế bức bách, Lưu Bị đành phải trở về Từ châu hàng Lã Bố. Lã Bố thấy Viên Thuật thất tín không cấp lương cho mình bèn hòa giải với Lưu Bị: ông cho Lưu Bị giữ thành Tiểu Bái. Lã Bố tự xưng là châu mục Từ châu; ông mời Lưu Bị xưng là thứ sử Dự châu – Dự châu vốn có 6 quận nhưng trên thực tế Lưu Bị chỉ có 1 quận Tiểu Bái đóng quân.
Dẹp Hách Manh
Tháng 6 năm 196, bộ tướng của Lã Bố là Hách Manh nghe lời xúi giục của Viên Thuật bèn phản lại ông, mang quân xông vào phủ Hạ Bì. Nửa đêm Lã Bố không kịp phân biệt người phe nào, chỉ kịp kéo vợ chạy từ nhà vệ sinh vào trại của bộ tướng Cao Thuận. Cao Thuận nghe giọng phản quân là giọng người quận Hà Nội, đoán ra Hách Manh, bèn chấn chỉnh quân sĩ chống trả, quân Hách Manh phải lui.
Sáng ra, thủ hạ của Hách Manh là Tào Tính phản lại Manh, hai bên đánh nhau cùng bị thương. Lã Bố sai Cao Thuận mang quân ra dẹp, giết chết Manh rồi cho Tào Tính lĩnh quân của Manh.
Bắn kích Viên môn
Không giết được Lã Bố, Thuật lại trở mặt làm thân, xin kết thông gia với Lã Bố. Khi dẹp Hách Manh, Lã Bố đã tra ra việc Manh nghe Thuật xui bẩy nhưng vì tình thế hiện tại chưa trở mặt đánh nhau được nên ông nhận lời.
Lã Bố biểu diễn bắn cung cứu Lưu Bị, minh họa đời nhà Thanh
Viên Thuật thấy Lã Bố ngả theo mình lại sai Kỷ Linh mang 3 vạn quân tấn công Tiểu Bái để diệt Lưu Bị. Lã Bố chỉ mang 1000 quân bộ và 200 quân kỵ tới Tiểu Bái, bắt hai bên phải hòa giải. Ông sai cắm kích từ xa 150 bước và giao hẹn sẽ bắn tên, nếu trúng vào ngạnh kích thì hai bên phải giảng hòa.
Sau đó Lã Bố lùi lại giương cung bắn trúng ngay ngạnh kích. Mọi người đều khâm phục. Lưu Bị cảm ơn ông, còn Kỷ Linh thấy Lã Bố kiêu dũng không dám trái ý phải mang quân về.
Giao tranh Viên Thuật và Tào Tháo
Huỷ bỏ hôn ước
Năm 197, Viên Thuật tự xưng là hoàng đế ở Thọ Xuân, sai Khâm sai Hàn Dận đến Hạ Bì nhắc lại việc kết thông gia với Lã Bố, lấy con gái ông về làm con dâu cho thái tử. Lã Bố bằng lòng giao con gái cho Hàn Dận mang đi. Cha con Trần Khuê và Trần Đăng ở Hạ Bì vốn ngả theo Tào Tháo, sợ hai họ Viên, Lã thông gia thì khó khống chế được, nên vội đến can Lã Bố không nên kết thân với Viên Thuật vì Thuật xưng đế là trái đạo; ngược lại Trần Khuê khuyên Lã Bố hợp tác với Tào Tháo.
Lã Bố nghe có lý, bèn mang quân đuổi theo cướp con gái trở về Hạ Bì, bắt Hàn Dận đóng gông sai người giải đến Hứa Xương nộp cho Tào Tháo và tuyên bố bỏ hôn ước với Viên Thuật.
Tào Tháo sai Vương Tắc mang chiếu thư của Hiến Đế và ấn tín đến trao cho ông, đồng thời gửi thư khen ngợi ông và gửi lễ vật riêng cho ông. Lã Bố rất mừng, sai Trần Đăng mang biểu chương tạ ơn vua Hiến Đế, xin được phong từ Thứ sử Từ châu lên Châu mục Từ châu và gửi lễ vật đáp lại Tào Tháo. Nhưng Trần Đăng lại nhận lời làm tay trong cho Tào Tháo, khuyên Tào Tháo nên sớm trừ khử Lã Bố. Tào Tháo phong chức cho cha con Trần Đăng và Trần Khuê.
Lã Bố thấy mình chưa được thăng chức, còn cha con họ Trần được phong rất tức giận, nhưng Trần Đăng lựa lời nói với ông rằng:Tào công coi tướng quân như con chim ưng, nói rằng phải bỏ đói thì mới dùng được
Lã Bố nghe nói Tào Tháo coi mình như chim ưng thì rất vừa lòng, không giận Trần Đăng nữa.
Hoà Tào đuổi Viên
Viên Thuật thấy Lã Bố trở mặt rất tức giận, sai Trương Huân, Kiều Nhuy liên hợp với Dương Phụng và Hàn Tiêm cất 7 đạo quân đi đánh Từ châu, quân đông vài vạn người.
Lúc đó Lã Bố chỉ có 3000 quân và 400 con ngựa. Ông hỏi kế Trần Khuê. Trần Khuê khuyên ông viết thư ly gián hai tướng Dương Phụng, Hàn Tiêm. Lã Bố làm theo, gửi thư cho hai tướng như sau:Hai vị tướng quân đích thân bảo vệ xa giá, còn tôi tự tay giết Đổng Trác. Chúng ta đều lập đại công cho nhà Hán, đáng được lưu truyền trong sử sách. Nay Viên Thuật làm phản, lẽ ra chúng ta phải cùng diệt hắn, sao các tướng quân lại theo hắn đánh tôi? Chúng ta hãy nhân cơ hội này đồng tâm hiệp lực đánh Viên Thuật lập công với thiên hạ mới phải!
Lã Bố còn hứa sẽ cấp lương thực cho hai tướng. Hàn Tiêm, Dương Phụng đồng ý theo Lã Bố, bèn quay giáo đánh lại Viên Thuật, kết quả đại phá Trương Huân và bắt sống Kiều Nhuy. Sau đó Lã Bố cùng Dương Phụng và Hàn Tiêm hợp binh hai đường thủy bộ tấn công Thọ Xuân, cướp bóc đến Chung Ly mới rút lui.
Hoà Viên đuổi Tào
Năm 198, lực lượng của Lưu Bị ở Tiểu Bái mạnh lên đến hàng vạn người khiến Lã Bố lo ngại. Ông lại giảng hòa với Viên Thuật, nhận lời giúp Viên Thuật đánh Lưu Bị. Ông điều hai tướng Cao Thuận và Trương Liêu làm tướng đánh Tiểu Bái.
Lưu Bị không chống cự nổi, bỏ thành và gia quyến chạy về phía tây đến Lương Địa và sai người cầu cứu Tào Tháo. Tào Tháo sai Hạ Hầu Đôn đi cứu. Quân hai bên đụng độ ở Từ châu. Lã Bố cầm quân ra đối địch đánh bại Hạ Hầu Đôn và bắn tên trúng vào mắt Đôn.Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng người bắn chột mắt Hạ Hầu Đôn là Tào Tính - bộ tướng của Lã Bố.
Lúc đó các tướng thảo khấu ở vùng Thái Sơn như Tang Bá, Tôn Quan, Ngô Đôn, Doãn Lễ, Xương Hi đều hàng phục Lã Bố khiến lực lượng của ông khá mạnh.
Chết ở lầu Bạch Môn
Tháng 9 năm 198, Tào Tháo đích thân cùng Lưu Bị mang quân tới đánh Từ châu. Tháng 10 năm đó quân Tào đến Bành Thành, giết chết tướng giữ thành là Hầu Giai. Sau đó Tào Tháo tiến đến Hạ Bì, Trần Cung khuyên Lã Bố mang quân ra đón đánh địch nhưng ông không nghe theo, muốn đợi quân Tào đến thành mới giao chiến.
Quân Tào kéo tới Hạ Bì, Lã Bố mang quân kỵ ra nghênh chiến. Tào Tháo bắt sống được viên mãnh tướng của Lã Bố là Thành Quảng, Lã Bố thua bị mấy trận phải rút vào thành Hạ Bì cố thủ và sai người cầu cứu Viên Thuật và Trương Dương.
Tào Tháo bèn gửi thư dụ hàng ông. Lã Bố muốn hàng, nhưng Trần Cung cho rằng không nên, và hiến kế chia quân chống lại: Lã Bố mang một đạo quân ra ngoài làm thế ỷ dốc với thành, quân Tào đánh đâu thì hai bên cùng liên hợp chống lại. Lã Bố nghe có lý bèn chuẩn bị ra thành, nhưng nghe lời vợ can không nên đi lại thay đổi ý định không đi nữa, chỉ sai Hứa Dĩ, Vương Khải đi cầu cứu viện binh của Viên Thuật lần nữa.
Viên Thuật ra điều kiện Lã Bố phải mang con gái tới Thọ Xuân theo lời hứa hôn trước đây thì mới phát binh. Ông bèn lấy bông và áo giáp bọc cho con gái, đưa lên mình ngựa và sai quân nhân lúc đêm tối vượt vòng vây đi đến chỗ Viên Thuật.
Quân Tào vây đánh 1 tháng không hạ được, bắt đầu mệt mỏi. Tào Tháo muốn lui quân nhưng Tuân Úc và Quách Gia khuyên nên đánh gấp. Tào Tháo theo kế, sai quân khơi sông Nghi Thủy và sông Tứ Thủy đổ nước vào thành Hạ Bì. Thành ngập nước, Lã Bố nguy khốn phải lui dần vào trong rồi rút lên cố thủ ở lầu Bạch Môn, thế cùng lực kiệt. Viện binh của Viên Thuật vẫn không thấy đến.
Trong bước đường cùng, Lã Bố đã mang vợ mình đến chỗ Quan Vũ - tướng của Lưu Bị - để lấy lòng, hy vọng Quan Vũ nói giúp với Tào Tháo. Quan Vũ mang vợ Lã Bố đến cho Tào Tháo, Tào ưng ý và giữ lại chỗ mình, nhưng vẫn vây đánh thành.
Đúng lúc đó Trương Dương ở Hà Nội phát binh cứu Lã Bố. Nhưng Dương bị thủ hạ là Dương Xú giết chết để hàng Tào Tháo.
Lã Bố nguy cấp quá, bèn lên lầu thành nói với thủ hạ của Tào Tháo rằng hãy nới vòng vây để mình ra thành thú tội với Tào Tháo. Tuy nhiên sau đó Trần Đăng một mực can không nên hàng Tào, Lã Bố lại nghe theo.
Thủ hạ của Lã Bố là Hầu Thành bị trách phạt nên oán hận, bèn bất ngờ bắt trói Trần Cung và Cao Thuận mang nộp và mở cửa ra hàng Tào Tháo. Tào Tháo cùng Lưu Bị thúc quân vào. Lã Bố trên lầu Bạch Môn bị dồn vào đường cùng, nói với các thủ hạ hãy chặt đầu mình nộp cho Tào Tháo lấy thưởng, nhưng các thủ hạ của ông không nỡ làm. Quân Tào tiến lên lầu bắt trói được Lã Bố.Tam Quốc diễn nghĩa chép: hai bộ tướng Ngụy Tục và Tống Hiến đồng mưu với Hầu Thành trói Lã Bố lại rồi mở cửa cho quân Tào vào.
Lã Bố muốn xin Tào Tháo cho mình đầu hàng, lại nhờ Lưu Bị nói giúp. Nhưng Lưu Bị khuyên Tào Tháo nên giết ông vì ông là người hay trở mặt, từng giết Đinh Nguyên và Đổng Trác. Tào Tháo nghe theo, bèn sai mang Lã Bố giết chết.
Các tướng dưới quyền ông là Cao Thuận, Trần Cung cùng bị chém, chỉ có Trương Liêu đầu hàng Tào Tháo và sau trở thành danh tướng nhà Tào Ngụy.
Nhận định: Lã Bố nổi danh kiêu dũng, thiện chiến, nhưng hữu dũng vô mưu. Trong đời tranh hùng thiên hạ, Lã Bố đã lần lượt quay lưng với Đinh Nguyên, Đổng Trác, Trương Dương, Viên Thuật,Lưu Bị. Ông làm việc khinh suất, tùy ý theo hay phản, lật lọng tráo trở, chỉ mưu lợi cho mình, không trọng tín nghĩa nên cuối cùng đã thất bại.
Lã Bố được Trương Siêu, Trương Mạo, Trương Dương tin tưởng và giúp đỡ; nhưng cuối cùng ông đã bỏ rơi anh em Trương Mạo, Trương Siêu ở Duyện châu. Những người họ Trương và Tang Hồng được xem là đầy nghĩa khí nhưng cái chết của họ vì Lã Bố lại được các nhà sử học xem là đáng tiếc .
Trong văn học nghệ thuậtLã Bố được biết đến nhiều nhất qua tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, xuất hiện từ hồi 3 đến hồi 19. Lã Bố ra trận đầu búi tóc, đội kim quan, ngoài phủ giáp đường nghê, thắt bảo đới, mình mặc chiến bào đỏ thêu trăm hoa, ngoài khoác áo giáp thú diện liên hoàn, lưng đeo một bộ cung tên bạc, tay cầm phương thiên hoạ kích, cưỡi ngựa Xích Thố , dũng mãnh vô cùng. Ngoài một số tình tiết hư cấu, nhìn chung Lã Bố được La Quán Trung mô tả khá gần với hình ảnh trong sử sách: người dũng cảm khỏe mạnh, giỏi võ nghệ cung kiếm, nhưng chủ quan khinh suất, thiếu mưu lược và hay trở mặt.
Tình tiết hư cấu đáng kể nhất của La Quán Trung trở thành một điển tích trong văn học là trận “Tam anh chiến Lã Bố” ở cửa ải Hổ Lao trong hồi thứ 4. Ảnh hưởng từ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, nhiều vở Kinh kịch của Trung Quốc được xây dựng có nhân vật Lã Bố như Tam anh chiến Lã Bố, Liên hoàn kế, Viên môn xạ kích, Lã Bố hí Điêu Thuyền, Đại náo Phụng Nghi Đình.
Trong truyền thông và giải trí
Vì sự dũng mãnh vô song của ông trong lịch sử cũng như trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, ông thường xuất hiện trong các tác phẩm dựa trên Tam Quốc, đôi khi ngay cả trong các tác phẩm không dựa vào Tam Quốc. Bao gồm cả trong game, nơi ông thường có chỉ số War/Attack cao nhất. Một số ví dụ cho những được liệt kê dưới đây:
Lã Bố là một nhân vật trong series game Tam quốc diễn nghĩa của Koei game của Tam Quốc. Ông nói chung là nhân vật duy nhất trong game với chỉ số chiến tranh đạt mức tối đa.
Lã Bố là một nhân vật trong các trò chơi phổ biến loạt Dynasty Warriors, nơi ông thường là nhân vật mạnh nhất và sử dụng Phá thiên kích (Sky Piercer). Ông thường được miêu tả là đầu búi tóc đội kim quy, như trong hình ảnh truyền thống của ông. Trong Dynasty Warriors 6 ông mặc áo giáp màu đen, và sử dụng song kích. Ông là nhân vật rất khó để đánh bại trong DW6.
Trong Warriors Orochi, Lã Bố dưới quyền Orochi như là một trong những viên tướng hàng đầu của ông. Trong loạt game kết hợp giữa Dynasty Warriors và Samurai Warriors, Lã Bố cuối cùng đã tìm thấy một Thách thức xứng đáng để chiến đấu anh ta, Honda Tadakatsu, người dẫn đầu một lực lượng độc lập chống lại Orochi, và liên tục tìm kiếm một cơ hội để đấu anh ta. Ông cũng tìm đến một ngày để thách đấu với chính Orochi. Trong trò chơi phần tiếp theo, ông vẫn còn phục vụ Orochi, nhưng cuối cùng đã hình thành lực lượng của riêng mình, tạm thời đồng minh với phe Thục.
Trong game Capcom 's Destiny of an Emperor, Lã Bố xuất hiện như một nhân vật với chỉ số tấn công cao nhất. Trong game, người chơi có khả năng tuyển dụng anh ta vào bên Lưu Bị mặc dù chỉ là tạm thời. Duy nhất trong số các hình ảnh khác nhau của nhân vật, tCapcom 's Destiny of an Emperor (và manga được dựa trên, Tenchi o Kurau) Lã Bố được mô tả như là một người đàn ông da trắng, tóc vàng trái với hình ảnh quen thuộc.
Lã Bố là một trong những chiến binh trong Geo Neo 's World Heroes 2 Jet, mặc dù tên của ông đã thay là "Ryofu," cách phát âm tiếng Nhật của tên của ông.
Nhân vật Ryofu Housen (cách phát âm tiếng nhật của Lã Bố Phụng Tiên), trong anime ikki Tousen, là 1 nhân vật dựa trên Lã Bố.
Trong manga và OVA anime Ryofuko-chan, Lã Bố được thể hiện như là học sinh trường tiểu học Ryofuko.
Trong trò chơi thẻ thu Magic the Gathering có một thẻ tên là Lã Bố.
Trong loạt phim Tam quốc diễn nghĩa được sản xuất năm 2009, diễn viên đóng vai Lã Bố là Hà Nhuận Đông
XI. CHU DU
Chu Du (chữ Hán: 周瑜; 175 - 210) , tên tự là Công Cẩn (公瑾), là danh tướng của nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trong bộ truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa của nhà văn La Quán Trung có viết rằng do Chu Du đẹp trai và rất giỏi âm luật nên được gọi làMỹ Chu Lang (美周郎). Ông là một nhà quân sự tài ba, chuyên về thủy chiến, chức vụ chính thức là Đại Đô Đốc (Grand Admiral), nên được gọi là Chu Đô Đốc. Chu Du nổi tiếng với chiến thắng ở sông Xích Bích trước quân Tào Tháo, là trận chiến lớn nhất thời đó.
Chu Du sinh ra và lớn lên tại huyện Thư, quận Lư Giang. Lư Giang thuộc vùng Hoài Nam của Trung Nguyên, nhưng rất gần đất Ngô-Việt, ngày nay là Thư Thành, An Huy thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Gia đình Chu Du đều là danh sĩ, cha ông là Chu Dị từng làm quan huyện Lạc Dương, ông nội ông là Chu Cảnh và chú là Chu Trung từng làm quan Thái úy. Một người chú của Chu Du là Chu Thượng có thời gian làm Thái thú Đan Dương.
Chu Du thời trẻ chơi với Tôn Sách, con của Tôn Kiên, hai người thân nhau như anh em. Khi Tôn Kiên bị giết trong cuộc chiến với Lưu Biểu, họ Tôn một thời gian dài chịu sự khống chế của Viên Thuật. Năm 20 tuổi, Tôn Sách bắt đầu khởi binh ở Lịch Dương, chinh phạt Giang Đông. Chu Du đem binh lương giúp Tôn Sách, và sau đó theo Tôn Sách đánh dẹp khắp nơi, trở thành khai quốc công thần.
Năm Chu Du 24 tuổi đánh chiếm Hoãn Thành và cùng với Tôn Sách đi cầu hôn 2 cô con gái xinh đẹp của Kiều Công. Tôn Sách cưới Đại Kiều, còn Chu Du cưới Tiểu Kiều.
Năm 200, Tôn Sách bị thích khách bắn bị thương rồi chết. Chu Du chuyển từ thành Ba Khâu về Ngô Quận để giúp đỡ Tôn Quyền, lúc ấy còn nhỏ.
Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu và đòi Tôn Quyền đưa con trai đến làm con tin. Trương Chiêu sợ có chiến tranh nên không dám quyết định, nhưng Tôn Quyền nghe lời Chu Du và cương quyết từ chối. Tào Tháo cho một người tên là Tưởng Cán, là người quen của Chu Du đến dụ ông, nhưng Tưởng Cán về báo rằng "Chu Du là người có chí hướng cao vời, không thể thuyết phục được".
Năm 208, Lưu Bị thua chạy khỏi đất Trung Nguyên. Lưu Biểu chết bệnh, con là Lưu Tông đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, lấy danh nghĩa của Hán đế để yêu cầu Tôn Quyền đầu hàng. Lưu Bị cũng cho sứ giả cầu cứu. Các quan nước Ngô chia làm 2 phe, phe chủ hàng do Trương Chiêu cầm đầu, phe chủ chiến do Chu Du và Lỗ Túc đứng đầu. Chu Du phân tích cho Tôn Quyền tình hình chiến lược như sau:
Địa thế: Đất Ngô có sông bao bọc. Tào Tháo không có thủy quân giỏi.
Tình thế: Tào Tháo chưa bình định xong vùng Tây Lương, không thể ở lâu.
Thời điểm: Đang là mùa đông, đất Ngô khí hậu ẩm ướt, quân phương Bắc sẽ sinh bệnh.
Tôn Quyền cho Chu Du và Trình Phổ đi hợp quân với Lưu Bị. Quân Tào đóng ở bờ bắc sông Xích Bích, quân Ngô đóng ở bờ nam.
Trận Xích Bích: Quân của Chu Du ít hơn nhiều, nhưng lại chiếm ưu thế về thủy chiến, Tào Tháo không thể qua sông nên đóng trại ở bờ bắc để huấn luyện quân. Ông ta dùng xích sắt nối thuyền lớn lại theo lối của kị binh Liên Hoàn Mã, gọi đó là "Liên Hoàn Thuyền". Hoàng Cái giả đầu hàng Tào Tháo, và vào một đêm có gió đông nam, quân Ngô dùng hỏa công đánh trại của Tào Tháo, quân Tào thua to bỏ chạy. Do bị liên quân của Tôn Quyền và Lưu Bị đuổi, Tào Tháo cho Tào Nhân giữ Nam Quận, rồi rút về phương bắc. Trận Xích Bích đưa tên tuổi Chu Du nổi lên, và được liệt vào hàng những tướng giỏi của lịch sử Trung Quốc.
Chết trẻ: Chu Du tiến đánh Nam Quận, trong lúc đánh thành thì bị tên bắn trọng thương. Tào Nhân nghe tin thì kéo ra khỏi thành đánh, nhưng Chu Du dù bị thương vẫn huy động quân sĩ đánh bại Tào Nhân. Nhưng mũi tên có độc, vết thương của Chu Du không thể chữa khỏi, đến năm 210 thì chết, khi đó 36 tuổi. Người kế tục ông làm quân sư cho Tôn Quyền là Lỗ Túc.
Chu Du là người yêu âm nhạc, lễ phép khiêm tốn, nhưng trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, ông bị mô tả như một đứa trẻ ngô nghê và nóng tính, bị Gia Cát Lượng chọc tức 3 lần đến chết. Nhà văn còn viết một câu khá nổi tiếng rằng trước khi chết Chu Du phẫn uất mà than: "Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?". Trong bộ "Tướng Soái Trung Quốc Toàn Truyện" của các tác giả Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Tuyết và Dương Hiệu Xuân có ghi: "đó là lời lẽ của nhà văn, hoàn toàn không đáng tin". La Quán Trung là người "trù dập các tướng lĩnh Ngô, Ngụy và biến các tướng Thục thành thần, nếu các tướng Thục giỏi như vậy, sao cứ thua mãi?".
Chu Du có công cực lớn trong việc giúp nhà họ Tôn lập nên Đông Ngô, là khai quốc đại công thần.
Nhắc đến trong thơ
Chu Du là nhân vật tài hoa, có cá tính đậm nên thường được các thi nhân đời sau nhắc lại, tên của ông hay gắn với trận đại chiến Xích Bích:
Đỗ Mục trong bài "Xích Bích hoài cổ" có 2 câu nổiĐông phong bất dữ Chu Lang tiệnĐồng Tước xuân thâm toả nhị kiều
Nghĩa: Gió đông không giúp Chu Lang thì đài Đồng Tước khoá xuân hai cô Kiều.
Tô Thức thời Tống, trong bài từ nổi tiếng điệu Niệm nô kiều có nhắc đến Chu Du:Đại giang đông khứ,Lãng đào tận thiên cổ phong lưu nhân vật.Cổ luỹ tây biên,Nhân đạo thị Tam Quốc Chu Du Xích Bích
Nghĩa: Sông lớn chảy về Đông, cuốn đi hết thảy nhân vật phong lưu ngàn thuở, thành lớn ở phía Tây người bảo đó là Tam Quốc, Chu Du, Xích Bích.
Tản Đà trong bài hát nói "Hỏi gió" cũng nói về Chu Lang với giọng ngông cuồng:Thử thị Đà Giang, phi Xích BíchDã vô Gia Cát dữ Chu Lang!
Nghĩa: Đây là sông Đà, không phải Xích Bích, không có Gia Cát với Chu Lang.
XII. TÔN SÁCH
Năm 190, một năm sau khi Hán Linh Đế chết, Đổng Trác tiếm quyền, đưa lên ngai vàng một vị vua bù nhìn là Hán Hiến Đế. Các lãnh chúa khu vực tại miền đông Trung Quốc sau đó đã lập ra liên minh chống Đổng Trác. Tôn Kiên đi theo Viên Thuật, một trong các thủ lĩnh của liên minh. Các cố gắng nhằm loại bỏ ĐổngTrác nhanh chóng bị thất bại và Trung Quốc bị chia cắt bởi một loạt các cuội nội chiến lớn. Năm sau, Viên Thuật cử Tôn Kiên đem quân đánh Lưu Biểu, Thứ sử Kinh Châu (荆州, ngày nay là Hồ Bắc và Hồ Nam), nhưng đã bị bộ hạ của Lưu Biểu là Hoàng Tổ đem quân mai phục và giết chết.
Tôn Sách đem thi hài cha mình về Khúc A (曲阿, ngày nay thuộc Giang Tô) để chôn cất trước khi tiến về Đan Dương (丹楊, ngày nay là Tuyên Thành, An Huy), tại đó cậu của ông là Ngô Cảnh (吳景) đang làm thái thú. Sau đó ông lập ra một đội quân nhỏ vài trăm người. Lực lượng nhỏ này là quá yếu ớt để ông có thể thiết lập quyền lực riêng của chính mình, vì thế năm194 Tôn Sách lại theo Viên Thuật.
Năm 200, Tào Tháo đánh trận quyết định với Viên Thiệu tại Quan Độ, dọc theo bờ sông Hoàng Hà, để kinh đô và căn cứ của ông ta tại Hứa Xương vào tình thế ít được bảo vệ. Người ta cho rằng Tôn Sách đã vạch ra kế hoạch tấn công Hứa Xương dưới ngọn cờ giải cứu Hán Hiến Đế, khi đó đang bị Tào Tháo kiểm soát gắt gao. Công việc chuẩn bị cho cuộc tấn công đang diễn ra thì Tôn Sách bị rơi vào nơi phục kích của 3 bộ hạ cũ của Hứa Cống trong một cuộc đi săn đơn độc. Một trong số ba người này đã kịp bắn một mũi tên trúng má Tôn Sách trước khi người của Tôn Sách kịp đến và giết chết những kẻ ám sát. Về cái chết của Tôn Sách có nhiều giả thiết khác nhau (xem dưới đây). Một kịch bản được chấp nhận nhiều nhất là ông ta chết ngay trong đêm đó.
Một kịch bản khác cho rằng Tôn Sách còn sống thêm được một thời gian nữa. Các thầy thuốc nói với Tôn Sách là ông cần phải nghỉ ngơi đúng 100 ngày để vết thương được bình phục, nhưng một hôm Tôn Sách nhìn vào trong gương và khi nhìn thấy vết sẹo đã điên tiết lên và đập vỡ bàn. Chuyển động mạnh đã làm vết thương vỡ ra và ông chết trong đêm đó. Mặc dù khi đó có một con trai chưa sinh ra, nhưng Tôn Sách đã truyền lại di sản cho em trai là Tôn Quyền. Năm 222, khi Tôn Quyền tự xưng làm hoàng đế đầu tiên của Đông Ngô, ông đã phong Tôn Sách làm Trường Sa Hoàn Vương (長沙桓王).
Dòng dõi Tôn Sách được kế tiếp bằng con trai sinh ra sau khi cha mất là Tôn Thiệu (孫紹), cũng như ít nhất là hai (có thể là ba) con gái, một người lấy Chu Kỷ (朱紀), người kia lấy Cố Thiệu (顧卲) và sau đó là Lục Tốn (陆逊). Tôn Thiệu sinh được một con trai là Tôn Phụng (孫奉), sau này bị Tôn Hạo tử hình với tội danh được gán cho là phản bội do ông này rất nổi tiếng.
Dưới quyền Đinh Nguyên
Theo ghi chép trong lịch sử vào năm Hi Bình thứ năm (năm 176), bộ lạc Tiên Ti (một dân tộc cổ ở miền bắc Trung Quốc) phát động chiến tranh chống Đông Hán. Lã Bố theo cha rút xuống phía nam, đến đất Sơn Tây. Khi đó thứ sử Tinh châu là Đinh Nguyên lĩnh chức Kị đô úy, đóng ở Hà Nội bèn bổ nhiệm Lã Bố làm chủ bạ, luôn coi ông là người thân tín.Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, La Quán Trung kể rằng Đinh Nguyên nhận Lã Bố làm con nuôi
Năm 189, Hán Linh Đế qua đời, con là Hán Thiếu Đế Lưu Biện lên nối ngôi. Ngoại thích Hà Tiến mưu trừ hoạn quan chuyên quyền, bèn triệu tập quân các trấn. Đinh Nguyên theo lệnh dẫn quân đến Lạc Dương, Lã Bố đi theo. Sau đó Hà Tiến bị hoạn quan giết, Viên Thiệu diệt hoạn quan. Một tướng khác được Hà Tiến triệu tập là Đổng Trác cũng tiến vào Lạc Dương, tranh chấp quyền lực. Viên Thiệu yếu thế phải bỏ chạy còn Đinh Nguyên dàn quân chống lại. Trong trận này Lã Bố đã thể hiện mình là mãnh tướng dũng mãnh vô song, đánh tan quân đội Đổng Trác và làm Đổng Trác kinh hoảng phải tế ngựa bỏ chạy. Sau trận đó Đổng Trác đã họp bàn với các mưu sỹ của mình với ý định chiêu mộ Lã Bố.
Lúc đó Đổng Trác dùng kế lấy lợi lộc và ngựa Xích Thố, sai Lý Túc- 1 tướng dưới quyền của mình, đến dụ Lã Bố để ông phản lại Đinh Nguyên. Lã Bố nhận lời, nhân lúc Đinh Nguyên tin tưởng mình không phòng bị bèn bất ngờ giết chết Đinh Nguyên, mang toàn quân về hàng Đổng Trác.
Dưới quyền Đổng Trác
Đổng Trác nhận Lã Bố làm con nuôi và bổ nhiệm làm Kị đô úy. Ông trở thành người phục vụ đắc lực cho Đổng Trác.
Nhờ sức khỏe hơn người, giỏi võ nghệ và cung tên, ông được mọi người gọi là Phi tướng quân. Sau đó ông được Đổng Trác phong làm Trung lang tướng, tước Đô đình hầu.
Viên Thiệu triệu tập chư hầu chống lại Đổng Trác. Tướng Tôn Kiên ở Ngô quận hưởng ứng, mang quân tấn công Trác. Đổng Trác sai Lã Bố và Hồ Chẩn ra đánh. Lã Bố và Hồ Chẩn bất hòa, vì vậy bị Tôn Kiên đánh bại phải rút chạy về. Đổng Trác mang vua Hiến Đế bỏ Lạc Dương chạy vào Tràng An, chỉ để bộ tướng Từ Anh và Ngưu Phụ ở lại chống giữ, còn Lã Bố đi theo vào Tràng An.Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng Lã Bố ra trận địch với quân chư hầu, đánh nhau cùng ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi trong trận“Tam anh chiến Lã Bố”.
Trong những lần được giao bảo vệ Trung các, Lã Bố thừa cơ quan hệ tình ái với người hầu của Đổng Trác. Ông rất lo sợ bị phát hiện.Do Đổng Trác tàn bạo, giết nhiều người và kết oán với nhiều người nên những lúc xuất hành và nghỉ ngơi thường dùng Lã Bố làm cảnh vệ. Tuy nhiên, Trác quen tính thô lỗ và nóng nảy, có lần Lã Bố đứng hầu có chút không vừa ý bèn chộp lấy cái kích phi vào ông. Lã Bố vội tránh cây kích và xin lỗi, Đổng Trác mới nguôi giận. Cũng từ đó Lã Bố hận thù Trác.
Trong hàng ngũ các đại thần nhà Hán, Lã Bố được Tư đồ Vương Doãn - người đồng hương Tinh châu - quý mến. Ông tới nhà Vương Doãn thuật việc mình bị Đổng Trác phi kích. Vương Doãn vốn đang cùng Bộc xạ Sĩ Tôn Thụy mưu giết Trác, thấy Lã Bố như vậy bèn bàn mưu cùng hành sự. Ban đầu Lã Bố còn do dự vì ông đã nhận Đổng Trác làm cha nuôi, nhưng vì Vương Doãn lựa lời thuyết phục nên ông nghe theo.Trong Tam Quốc diễn nghĩa, La Quán Trung ghép những tình tiết này vào một, kể rằng Lã Bố bị Đổng Trác rượt đuổi và phóng kích vì bị bắt quả tang tình tự với Điêu Thuyền – ái thiếp của Trác, vốn là con nuôi trong nhà Vương Doãn. Sử sách không nhắc tới một nàng Điêu Thuyền nào giữa 3 người Vương Doãn – Lã Bố - Đổng Trác. Theo sử gia Lê Đông Phương: Hai chữ điêu thuyền vốn là tên một chức quan trong cung thời Hán. Đây không phải là tên người. Khi Đổng Trác vào cung vua hoành hành đã bắt nhiều phụ nữ mua vui, nên một a hoàn vốn là điêu thuyền của triều đình có thể có trong nhà Đổng Trác chứ không thể có trong nhà Vương Doãn. Nhân vật Điêu Thuyền có trong nhà Vương Doãn hay không điều đó không quan trọng , nhưng Lã Bố đã giết Đổng Trác vì có sự xúi giục của Vương Doãn.
Vương Doãn sai Sĩ Tôn Thụy thay mặt Hán Hiến Đế viết chiếu thư sai Lã Bố giết Đổng Trác. Tháng 4 âm lịch năm 192, Đổng Trác vào cung yết kiến vua Hiến Đế. Lã Bố trước đã lệnh cho thuộc tướng Lý Túc phục võ sĩ ở cửa Bắc Dịch chờ đợi, còn bản thân ông vẫn theo hộ vệ Đổng Trác. Khi Trác vừa vào, Lý Túc đâm luôn, nhưng Trác mặc giáp nên chỉ bị thương ngã ra đất. Trác chưa biết Lã Bố phản mình nên gọi Lã Bố đến cứu thì ông chạy thẳng tới đâm chết Trác.
Sau đó ông rút chiếu thư ra đọc, tuyên bố mình được lệnh của vua để giết Trác, vì vậy tướng sĩ dưới quyền Trác đều không dám chống lại.
Vương Doãn bổ nhiệm Lã Bố làm Phấn vũ tướng quân và phong tước Ôn hầu.Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng chức Ôn hầu của Lã Bố do Đổng Trác phong.
Mất Tràng An
Vương Doãn sai Lã Bố đi đánh dẹp con rể Đổng Trác là Ngưu Phụ đang hoành hành, chém giết nhân dân vô tội ở Trung Mâu, Dĩnh Xuyên, Trần Lưu.
Lã Bố sai Lý Túc đi đánh Ngưu Phụ nhưng Túc để thua trận chạy về Tràng An. Lã Bố bèn giết chết Túc. Ngưu Phụ thắng trận nhưng bị thủ hạ là Hồ Diệc Nhi giết chết, mang đầu đến Tràng An nộp cho Vương Doãn.
Ba bộ tướng của Ngưu Phụ là Lý Thôi, Quách Dĩ và Trương Tế cầu khẩn Vương Doãn tha tội theo Đổng Trác. Trước đó Lý Thôi và Quách Dĩ đã sát hại vài trăm người Tinh Châu - đồng hương với Vương Doãn và Lã Bố - ở trong vùng đất mình cai quản. Vì vậy Vương Doãn không đồng ý xá tội cho Lý và Quách. Lý Thôi, Quách Dĩ bèn cất quân Lương Châu nổi dậy báo thù, quân tập hợp dần dần được hơn 10 vạn, tấn công Tràng An.
Tràng An bị quân Lương Châu bao vây. Lã Bố chống cự trong 8 ngày, cuối cùng không giữ nổi. Lý Thôi thúc quân tràn vào thành. Lã Bố kịch chiến với quân Lý Thôi trên đường phố trong thành cũng không lại, phải bỏ thành chạy. Vương Doãn bị giết. Lã Bố mang theo đầu Đổng Trác, cưỡi ngựa Xích thố chạy qua cửa Vũ Quan về phía đông. Anh hùng ký chép: Quách Dĩ ở phía bắc thành. Lã Bố mở rộng cửa thành, dẫn binh tới chỗ Dĩ, nói: "Ngươi hãy tạm lui binh, chỉ mình ta và ngươi quyết thắng phụ". Dĩ và Lã Bố bèn đơn đả độc đấu, Lã Bố dùng mâu đâm trúng người Dĩ, quân kỵ của Dĩ ở phía sau liền tiến ra cứu Dĩ, Dĩ và Lã Bố hai bên đều bãi binh.
Lưu lạcXem thêm: Viên Thuật, Trương Dương, Viên Thiệu
Lã Bố chạy đến Nam Dương xin theo Viên Thuật. Viên Thuật có thù Đổng Trác giết nhiều người trong họ nhà mình ở Lạc Dương nên thu nhận và chu cấp cho Lã Bố.
Lã Bố để cho thủ hạ làm nhiều điều trái phép, cướp của cải của dân. Viên Thuật thấy vậy tỏ ý giận, không chu cấp cho Lã Bố nữa. Ông bèn bỏ Nam Dương đi một mạch dài, qua sôngHoàng Hà tới quận Hà Nội thuộc Tinh châu, theo thái thú Hà Nội là Trương Dương - người vốn từng cùng ông phục vụ dưới trướng Đinh Nguyên. Tuy Trương Dương là người tốt và có nghĩa khínhưng trong số thủ hạ của Dương lại muốn giết ông để lập công theo lệnh tầm nã của Lý Thôi (đã khống chế vua Hiến Đế) và để trả thù cho Đinh Nguyên. Lã Bố lo sợ không yên, muốn thử lòng Trương Dương, bèn nói:Triều đình Tràng An treo giải thường bắt tôi, nếu ngài chặt đầu tôi thì không bằng bắt trói tôi lại mà giải đi.
Trương Dương thấy lòng tốt của mình bị nghi ngờ nên mếch lòng nói:Lời ngươi nói rất đúng
Tuy Trương Dương không hành động gì nhưng Lã Bố cảm thấy không an toàn, sau đó cùng thủ hạ lẻn trốn khỏi quận Hà Nội sang Ký châu theo Viên Thiệu.
Ông giúp Viên Thiệu đánh tướng Khăn Vàng là Trương Yên ở Thường Sơn. Yên có hơn vạn tinh binh, mấy nghìn quân kỵ. Bố có con ngựa hay gọi là Xích Thố. Tào Man truyện chép: Người bấy giờ có câu rằng: "Người thì có Lã Bố, ngựa thì có Xích Thố". Ông cưỡi ngựa Xích thố, mỗi ngày cùng vài chục thủ hạ xông thẳng vào trại địch ba bốn lần. Quân Trương Yên thua tan tác, bản thân Trương Yên nản lòng, cuối cùng nhận sự chiêu an của triều đình.
Lã Bố lập công, liên tiếp sai người giục Viên Thiệu tăng viện cho mình. Tướng sĩ dưới quyền cũng cậy công đi cướp bóc. Thấy Viên Thiệu không đáp ứng tăng viện, ông bèn xin về Lạc Dương. Viên Thiệu ngoài mặt đồng ý, phong Lã Bố làm Tư lệ hiệu úy, nhưng sau lưng lại dặn các tướng thừa cơ giết ông.
Lã Bố đoán biết Viên Thiệu nghi ngờ mình, nên sắp đặt kế thoát thân. Ban đầu ông giả cách ngồi trong trướng gảy đàn tranh, nhưng sau đó đưa đàn cho người khác gảy tiếp để lừa thủ hạ của Viên Thiệu, còn ông thì bí mật nhân trời tối lẻn chạy trốn. Một lúc sau thủ hạ của Viên Thiệu đi thám thính nghe tiếng đàn tắt tưởng Lã Bố đã ngủ bèn đi báo cho các tướng của Viên Thiệu. Các tướng ập đến mới biết bị lừa. Viên Thiệu nghe tin báo không giết được ông bèn sai người đuổi theo, nhưng những người đuổi theo đều không địch nổi Lã Bố, bị đánh phải quay trở về.
Cùng đường, ông lại đành phải tìm đến chỗ Trương Dương. Trương Dương không nhắc lại việc trước đây Lã Bố ra đi không từ biệt, cho ông quay trở lại. Trên đường đi, ông qua quận Trần Lưu và được thái thú Trương Mạc - người từng hội binh đánh Đổng Trác – đón rước và kết giao với nhau.
Giao tranh với Tào Tháo
Địa bàn của Trương Mạc vốn thuộc Duyện châu của Tào Tháo đang có thế lực hùng mạnh. Năm 193, Tào Tháo nghi ngờ châu mục Từ châu là Đào Khiêm giết cha mình, bèn mang quân đánh Từ châu. Không giết được Đào Khiêm, Tào Tháo sát hại rất nhiều người dân vô tội ở Từ châu.
Trương Mạc cùng Trần Cung giận Tào Tháo tàn bạo, bèn cùng nhau tôn Lã Bố làm thứ sử Duyện châu, giao cho 10 vạn quân đánh Tào Tháo. Em Trương Mạc là Trương Siêu cũng giúp binh lương cho Lã Bố.
Lã Bố lấy Bộc Dương làm bản doanh, mang quân chiếm các thành trì của Tào Tháo ở Duyện châu. Chỉ còn 3 thành còn trung thành với Tào Tháo là Yên Thành, Đông A và Phạm Huyện, Lã Bố chưa đánh chiếm được.
Tào Tháo phải bỏ Từ châu, mang quân về lấy lại Duyện châu. Lã Bố chiếm lấy Bộc Dương mà không đóng quân ra các nơi hiểm yếu như Kháng Phụ, Tế Ninh và bến đò Hoàng Hà, Tào Tháo cho rằng Lã Bố vô mưu, có ý coi thường, dẫn quân tấn công Bộc Dương.
Quân Tào Tháo phần đông là người Thanh châu mới theo hàng, không địch nổi quân Lã Bố. Lã Bố theo kế của Trần Cung đánh tan quân Tào ở Bộc Dương. Đại quân Tào Tháo bị thua lớn, doanh trại bị đốt cháy, bản thân Tào bị bỏng cánh tay trái và suýt bị Lã Bố bắt sống.Sự kiện Tào Tháo gặp nguy cấp ở Bộc Dương được La Quán Trung mô tả tương tự trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, nhưng chiến sự lại diễn ra chủ yếu trong thành khi Lã Bố dùng mưu dụ Tào Tháo tiến vào.
Sau đó Lã Bố và Tào Tháo giữ nhau hơn 100 ngày ở Bộc Dương không đánh. Đến mùa thu năm 194, ở Duyện châu có nạn châu chấu hại lúa, cả hai bên đều bị thiếu lương. Tào Tháo phải rút quân về Yên Thành, còn Lã Bố thu quân về Sơn Dương.
Đầu năm 195, Tào Tháo quyết định thay đổi chiến thuật đánh Lã Bố, dương đông kích tây khiến Lã Bố mệt mỏi. Tào Tháo chia quân làm nhiều ngả, một mặt điều một cánh quân đi đánh Định Đào. Lã Bố đi cứu; đến mùa hạ lại tấn công Cự Dã, bao vây hai tướng của Lã Bố là Tiết Lan và Lý Phong. Trần Cung và Lã Bố mang 1 vạn quân từ Định Đào đi cứu. Tào Tháo lợi dụng địa hình dùng kế mai phục đánh bại Lã Bố trên đường rồi thúc quân lấy Định Đào. Lã Bố và Trần Cung rút quân về Đông Mân. Tào Tháo hạ thành Cự Dã, giết chết Phong và Lan. Trong khi Lã Bố và Trần Cung còn lúng túng chưa biết cử động ra sao thì Tào Tháo đã điều các cánh quân đánh chiếm các thành trì nhỏ ở Duyện châu. Lã Bố nghe tin mấy thành xung quanh bị hạ, hoang mang tột độ bèn chạy về Từ châu theo Lưu Bị.
Việc Lã Bố vội vã rút lui khỏi Duyện châu khiến anh em Trương Mạc và Trương Siêu mất chỗ dựa. Họ Trương sau đó bị Tào Tháo đánh bại giết chết.
Giảng hòa với Tào Tháo
Lưu Bị ở Từ châu đón tiếp Lã Bố, cho ở thành Tiểu Bái - một quận thuộc Dự châu.
Năm 196, trong triều đình nhà Hán ở Tràng An xảy ra loạn lạc, Hán Hiến Đế trốn khỏi sự kìm kẹp của Lý Thôi và Quách Dĩ, chạy về phía đông. Trên đường, Hiến Đế tự mình viết thư mời Lã Bố đến nghênh giá. Tuy nhiên Lã Bố vừa bị Tào Tháo đánh bại, thế lực yếu, đành viết thư sai sứ giả dâng lên Hiến Đế. Hiến Đế bổ nhiệm ông làm Bình Đào hầu. Trên đường đi, sứ giả làm rơi mất thư và chiếu phong chức ở địa phận Sơn Dương
Ngay sau đó Tào Tháo đón được Hán Hiến Đế về Hứa Xương, có danh nghĩa thiên tử để sai khiến chư hầu. Biết việc chiếu thư phong chức của Hiến Đế cho Lã Bố bị thất lạc, Tào Tháo bèn tự tay viết thư cho Lã Bố, nhờ ông đối phó với các quân phiệt Công Tôn Toản và Viên Thuật. Lã Bố bèn viết thư gửi vua Hiến Đế như sau:Thần vốn phải phụng mệnh cung nghênh xa giá nhưng biết Tào Tháo trung hiếu đã đón bệ hạ đến Hứa Xương. Trước đây thần từng cùng giao binh với Tào Tháo, nay Tào Tháo bảo vệ bệ hạ, thần là ngoại tướng, tuy muốn dẫn binh theo nhưng lại sợ sinh hiềm nghi, cho nên tạm thời chờ xử tội ở Từ châu, không dám tự quyết.
Đồng thời, ông viết thư trả lời Tào Tháo, biểu thị lòng cảm kích và thành ý hợp tác.
Trấn giữ Từ châu
Chiếm Từ châu
Để chia rẽ Lã Bố và Lưu Bị, Tào Tháo nhân danh Hiến Đế phong chức cho Lưu Bị. Lưu Bị tiếp nhận. Lã Bố thấy Lưu Bị hợp tác với Tào Tháo, sợ hai bên liên kết đối phó với mình nên bắt đầu lo lắng.
Cùng lúc đó Viên Thuật ở Dương châu mang quân tấn công Từ châu. Lưu Bị mang quân ra chống cự ở Hoài Âm. Viên Thuật viết thư cho Lã Bố giục ông đánh úp Từ châu thì sẽ tạ ơn bằng 20 vạn hộc lương. Lã Bố nghe theo, nhân lúc hai tướng giữ Hạ Bì (thủ phủ Từ châu) là Trương Phi và Tào Báo bất hòa bèn mang quân đánh úp thành. Tào Báo bị Trương Phi giết, thủ hạ là Hứa Đam và Chương Luống đến gặp Lã Bố, khuyên nhân lúc đêm tối đánh ngay thì ở trong thành sẽ làm nội ứng. Lã Bố bèn tiến quân, Hứa Đam mở cửa thành cho ông chiếm Hạ Bì.
Lưu Bị mang quân trở về định đánh chiếm lại Hạ Bì nhưng bị Lã Bố đánh bại, phải lui quân về Quảng Lăng, lại bị Viên Thuật đánh bại một trận nữa, phải chạy ra Hải Tây. Trong thế bức bách, Lưu Bị đành phải trở về Từ châu hàng Lã Bố. Lã Bố thấy Viên Thuật thất tín không cấp lương cho mình bèn hòa giải với Lưu Bị: ông cho Lưu Bị giữ thành Tiểu Bái. Lã Bố tự xưng là châu mục Từ châu; ông mời Lưu Bị xưng là thứ sử Dự châu – Dự châu vốn có 6 quận nhưng trên thực tế Lưu Bị chỉ có 1 quận Tiểu Bái đóng quân.
Dẹp Hách Manh
Tháng 6 năm 196, bộ tướng của Lã Bố là Hách Manh nghe lời xúi giục của Viên Thuật bèn phản lại ông, mang quân xông vào phủ Hạ Bì. Nửa đêm Lã Bố không kịp phân biệt người phe nào, chỉ kịp kéo vợ chạy từ nhà vệ sinh vào trại của bộ tướng Cao Thuận. Cao Thuận nghe giọng phản quân là giọng người quận Hà Nội, đoán ra Hách Manh, bèn chấn chỉnh quân sĩ chống trả, quân Hách Manh phải lui.
Sáng ra, thủ hạ của Hách Manh là Tào Tính phản lại Manh, hai bên đánh nhau cùng bị thương. Lã Bố sai Cao Thuận mang quân ra dẹp, giết chết Manh rồi cho Tào Tính lĩnh quân của Manh.
Bắn kích Viên môn
Không giết được Lã Bố, Thuật lại trở mặt làm thân, xin kết thông gia với Lã Bố. Khi dẹp Hách Manh, Lã Bố đã tra ra việc Manh nghe Thuật xui bẩy nhưng vì tình thế hiện tại chưa trở mặt đánh nhau được nên ông nhận lời.
Lã Bố biểu diễn bắn cung cứu Lưu Bị, minh họa đời nhà Thanh
Viên Thuật thấy Lã Bố ngả theo mình lại sai Kỷ Linh mang 3 vạn quân tấn công Tiểu Bái để diệt Lưu Bị. Lã Bố chỉ mang 1000 quân bộ và 200 quân kỵ tới Tiểu Bái, bắt hai bên phải hòa giải. Ông sai cắm kích từ xa 150 bước và giao hẹn sẽ bắn tên, nếu trúng vào ngạnh kích thì hai bên phải giảng hòa.
Sau đó Lã Bố lùi lại giương cung bắn trúng ngay ngạnh kích. Mọi người đều khâm phục. Lưu Bị cảm ơn ông, còn Kỷ Linh thấy Lã Bố kiêu dũng không dám trái ý phải mang quân về.
Giao tranh Viên Thuật và Tào Tháo
Huỷ bỏ hôn ước
Năm 197, Viên Thuật tự xưng là hoàng đế ở Thọ Xuân, sai Khâm sai Hàn Dận đến Hạ Bì nhắc lại việc kết thông gia với Lã Bố, lấy con gái ông về làm con dâu cho thái tử. Lã Bố bằng lòng giao con gái cho Hàn Dận mang đi. Cha con Trần Khuê và Trần Đăng ở Hạ Bì vốn ngả theo Tào Tháo, sợ hai họ Viên, Lã thông gia thì khó khống chế được, nên vội đến can Lã Bố không nên kết thân với Viên Thuật vì Thuật xưng đế là trái đạo; ngược lại Trần Khuê khuyên Lã Bố hợp tác với Tào Tháo.
Lã Bố nghe có lý, bèn mang quân đuổi theo cướp con gái trở về Hạ Bì, bắt Hàn Dận đóng gông sai người giải đến Hứa Xương nộp cho Tào Tháo và tuyên bố bỏ hôn ước với Viên Thuật.
Tào Tháo sai Vương Tắc mang chiếu thư của Hiến Đế và ấn tín đến trao cho ông, đồng thời gửi thư khen ngợi ông và gửi lễ vật riêng cho ông. Lã Bố rất mừng, sai Trần Đăng mang biểu chương tạ ơn vua Hiến Đế, xin được phong từ Thứ sử Từ châu lên Châu mục Từ châu và gửi lễ vật đáp lại Tào Tháo. Nhưng Trần Đăng lại nhận lời làm tay trong cho Tào Tháo, khuyên Tào Tháo nên sớm trừ khử Lã Bố. Tào Tháo phong chức cho cha con Trần Đăng và Trần Khuê.
Lã Bố thấy mình chưa được thăng chức, còn cha con họ Trần được phong rất tức giận, nhưng Trần Đăng lựa lời nói với ông rằng:Tào công coi tướng quân như con chim ưng, nói rằng phải bỏ đói thì mới dùng được
Lã Bố nghe nói Tào Tháo coi mình như chim ưng thì rất vừa lòng, không giận Trần Đăng nữa.
Hoà Tào đuổi Viên
Viên Thuật thấy Lã Bố trở mặt rất tức giận, sai Trương Huân, Kiều Nhuy liên hợp với Dương Phụng và Hàn Tiêm cất 7 đạo quân đi đánh Từ châu, quân đông vài vạn người.
Lúc đó Lã Bố chỉ có 3000 quân và 400 con ngựa. Ông hỏi kế Trần Khuê. Trần Khuê khuyên ông viết thư ly gián hai tướng Dương Phụng, Hàn Tiêm. Lã Bố làm theo, gửi thư cho hai tướng như sau:Hai vị tướng quân đích thân bảo vệ xa giá, còn tôi tự tay giết Đổng Trác. Chúng ta đều lập đại công cho nhà Hán, đáng được lưu truyền trong sử sách. Nay Viên Thuật làm phản, lẽ ra chúng ta phải cùng diệt hắn, sao các tướng quân lại theo hắn đánh tôi? Chúng ta hãy nhân cơ hội này đồng tâm hiệp lực đánh Viên Thuật lập công với thiên hạ mới phải!
Lã Bố còn hứa sẽ cấp lương thực cho hai tướng. Hàn Tiêm, Dương Phụng đồng ý theo Lã Bố, bèn quay giáo đánh lại Viên Thuật, kết quả đại phá Trương Huân và bắt sống Kiều Nhuy. Sau đó Lã Bố cùng Dương Phụng và Hàn Tiêm hợp binh hai đường thủy bộ tấn công Thọ Xuân, cướp bóc đến Chung Ly mới rút lui.
Hoà Viên đuổi Tào
Năm 198, lực lượng của Lưu Bị ở Tiểu Bái mạnh lên đến hàng vạn người khiến Lã Bố lo ngại. Ông lại giảng hòa với Viên Thuật, nhận lời giúp Viên Thuật đánh Lưu Bị. Ông điều hai tướng Cao Thuận và Trương Liêu làm tướng đánh Tiểu Bái.
Lưu Bị không chống cự nổi, bỏ thành và gia quyến chạy về phía tây đến Lương Địa và sai người cầu cứu Tào Tháo. Tào Tháo sai Hạ Hầu Đôn đi cứu. Quân hai bên đụng độ ở Từ châu. Lã Bố cầm quân ra đối địch đánh bại Hạ Hầu Đôn và bắn tên trúng vào mắt Đôn.Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng người bắn chột mắt Hạ Hầu Đôn là Tào Tính - bộ tướng của Lã Bố.
Lúc đó các tướng thảo khấu ở vùng Thái Sơn như Tang Bá, Tôn Quan, Ngô Đôn, Doãn Lễ, Xương Hi đều hàng phục Lã Bố khiến lực lượng của ông khá mạnh.
Chết ở lầu Bạch Môn
Tháng 9 năm 198, Tào Tháo đích thân cùng Lưu Bị mang quân tới đánh Từ châu. Tháng 10 năm đó quân Tào đến Bành Thành, giết chết tướng giữ thành là Hầu Giai. Sau đó Tào Tháo tiến đến Hạ Bì, Trần Cung khuyên Lã Bố mang quân ra đón đánh địch nhưng ông không nghe theo, muốn đợi quân Tào đến thành mới giao chiến.
Quân Tào kéo tới Hạ Bì, Lã Bố mang quân kỵ ra nghênh chiến. Tào Tháo bắt sống được viên mãnh tướng của Lã Bố là Thành Quảng, Lã Bố thua bị mấy trận phải rút vào thành Hạ Bì cố thủ và sai người cầu cứu Viên Thuật và Trương Dương.
Tào Tháo bèn gửi thư dụ hàng ông. Lã Bố muốn hàng, nhưng Trần Cung cho rằng không nên, và hiến kế chia quân chống lại: Lã Bố mang một đạo quân ra ngoài làm thế ỷ dốc với thành, quân Tào đánh đâu thì hai bên cùng liên hợp chống lại. Lã Bố nghe có lý bèn chuẩn bị ra thành, nhưng nghe lời vợ can không nên đi lại thay đổi ý định không đi nữa, chỉ sai Hứa Dĩ, Vương Khải đi cầu cứu viện binh của Viên Thuật lần nữa.
Viên Thuật ra điều kiện Lã Bố phải mang con gái tới Thọ Xuân theo lời hứa hôn trước đây thì mới phát binh. Ông bèn lấy bông và áo giáp bọc cho con gái, đưa lên mình ngựa và sai quân nhân lúc đêm tối vượt vòng vây đi đến chỗ Viên Thuật.
Quân Tào vây đánh 1 tháng không hạ được, bắt đầu mệt mỏi. Tào Tháo muốn lui quân nhưng Tuân Úc và Quách Gia khuyên nên đánh gấp. Tào Tháo theo kế, sai quân khơi sông Nghi Thủy và sông Tứ Thủy đổ nước vào thành Hạ Bì. Thành ngập nước, Lã Bố nguy khốn phải lui dần vào trong rồi rút lên cố thủ ở lầu Bạch Môn, thế cùng lực kiệt. Viện binh của Viên Thuật vẫn không thấy đến.
Trong bước đường cùng, Lã Bố đã mang vợ mình đến chỗ Quan Vũ - tướng của Lưu Bị - để lấy lòng, hy vọng Quan Vũ nói giúp với Tào Tháo. Quan Vũ mang vợ Lã Bố đến cho Tào Tháo, Tào ưng ý và giữ lại chỗ mình, nhưng vẫn vây đánh thành.
Đúng lúc đó Trương Dương ở Hà Nội phát binh cứu Lã Bố. Nhưng Dương bị thủ hạ là Dương Xú giết chết để hàng Tào Tháo.
Lã Bố nguy cấp quá, bèn lên lầu thành nói với thủ hạ của Tào Tháo rằng hãy nới vòng vây để mình ra thành thú tội với Tào Tháo. Tuy nhiên sau đó Trần Đăng một mực can không nên hàng Tào, Lã Bố lại nghe theo.
Thủ hạ của Lã Bố là Hầu Thành bị trách phạt nên oán hận, bèn bất ngờ bắt trói Trần Cung và Cao Thuận mang nộp và mở cửa ra hàng Tào Tháo. Tào Tháo cùng Lưu Bị thúc quân vào. Lã Bố trên lầu Bạch Môn bị dồn vào đường cùng, nói với các thủ hạ hãy chặt đầu mình nộp cho Tào Tháo lấy thưởng, nhưng các thủ hạ của ông không nỡ làm. Quân Tào tiến lên lầu bắt trói được Lã Bố.Tam Quốc diễn nghĩa chép: hai bộ tướng Ngụy Tục và Tống Hiến đồng mưu với Hầu Thành trói Lã Bố lại rồi mở cửa cho quân Tào vào.
Lã Bố muốn xin Tào Tháo cho mình đầu hàng, lại nhờ Lưu Bị nói giúp. Nhưng Lưu Bị khuyên Tào Tháo nên giết ông vì ông là người hay trở mặt, từng giết Đinh Nguyên và Đổng Trác. Tào Tháo nghe theo, bèn sai mang Lã Bố giết chết.
Các tướng dưới quyền ông là Cao Thuận, Trần Cung cùng bị chém, chỉ có Trương Liêu đầu hàng Tào Tháo và sau trở thành danh tướng nhà Tào Ngụy.
Nhận định: Lã Bố nổi danh kiêu dũng, thiện chiến, nhưng hữu dũng vô mưu. Trong đời tranh hùng thiên hạ, Lã Bố đã lần lượt quay lưng với Đinh Nguyên, Đổng Trác, Trương Dương, Viên Thuật,Lưu Bị. Ông làm việc khinh suất, tùy ý theo hay phản, lật lọng tráo trở, chỉ mưu lợi cho mình, không trọng tín nghĩa nên cuối cùng đã thất bại.
Lã Bố được Trương Siêu, Trương Mạo, Trương Dương tin tưởng và giúp đỡ; nhưng cuối cùng ông đã bỏ rơi anh em Trương Mạo, Trương Siêu ở Duyện châu. Những người họ Trương và Tang Hồng được xem là đầy nghĩa khí nhưng cái chết của họ vì Lã Bố lại được các nhà sử học xem là đáng tiếc .
Trong văn học nghệ thuậtLã Bố được biết đến nhiều nhất qua tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, xuất hiện từ hồi 3 đến hồi 19. Lã Bố ra trận đầu búi tóc, đội kim quan, ngoài phủ giáp đường nghê, thắt bảo đới, mình mặc chiến bào đỏ thêu trăm hoa, ngoài khoác áo giáp thú diện liên hoàn, lưng đeo một bộ cung tên bạc, tay cầm phương thiên hoạ kích, cưỡi ngựa Xích Thố , dũng mãnh vô cùng. Ngoài một số tình tiết hư cấu, nhìn chung Lã Bố được La Quán Trung mô tả khá gần với hình ảnh trong sử sách: người dũng cảm khỏe mạnh, giỏi võ nghệ cung kiếm, nhưng chủ quan khinh suất, thiếu mưu lược và hay trở mặt.
Tình tiết hư cấu đáng kể nhất của La Quán Trung trở thành một điển tích trong văn học là trận “Tam anh chiến Lã Bố” ở cửa ải Hổ Lao trong hồi thứ 4. Ảnh hưởng từ tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, nhiều vở Kinh kịch của Trung Quốc được xây dựng có nhân vật Lã Bố như Tam anh chiến Lã Bố, Liên hoàn kế, Viên môn xạ kích, Lã Bố hí Điêu Thuyền, Đại náo Phụng Nghi Đình.
Trong truyền thông và giải trí
Vì sự dũng mãnh vô song của ông trong lịch sử cũng như trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, ông thường xuất hiện trong các tác phẩm dựa trên Tam Quốc, đôi khi ngay cả trong các tác phẩm không dựa vào Tam Quốc. Bao gồm cả trong game, nơi ông thường có chỉ số War/Attack cao nhất. Một số ví dụ cho những được liệt kê dưới đây:
Lã Bố là một nhân vật trong series game Tam quốc diễn nghĩa của Koei game của Tam Quốc. Ông nói chung là nhân vật duy nhất trong game với chỉ số chiến tranh đạt mức tối đa.
Lã Bố là một nhân vật trong các trò chơi phổ biến loạt Dynasty Warriors, nơi ông thường là nhân vật mạnh nhất và sử dụng Phá thiên kích (Sky Piercer). Ông thường được miêu tả là đầu búi tóc đội kim quy, như trong hình ảnh truyền thống của ông. Trong Dynasty Warriors 6 ông mặc áo giáp màu đen, và sử dụng song kích. Ông là nhân vật rất khó để đánh bại trong DW6.
Trong Warriors Orochi, Lã Bố dưới quyền Orochi như là một trong những viên tướng hàng đầu của ông. Trong loạt game kết hợp giữa Dynasty Warriors và Samurai Warriors, Lã Bố cuối cùng đã tìm thấy một Thách thức xứng đáng để chiến đấu anh ta, Honda Tadakatsu, người dẫn đầu một lực lượng độc lập chống lại Orochi, và liên tục tìm kiếm một cơ hội để đấu anh ta. Ông cũng tìm đến một ngày để thách đấu với chính Orochi. Trong trò chơi phần tiếp theo, ông vẫn còn phục vụ Orochi, nhưng cuối cùng đã hình thành lực lượng của riêng mình, tạm thời đồng minh với phe Thục.
Trong game Capcom 's Destiny of an Emperor, Lã Bố xuất hiện như một nhân vật với chỉ số tấn công cao nhất. Trong game, người chơi có khả năng tuyển dụng anh ta vào bên Lưu Bị mặc dù chỉ là tạm thời. Duy nhất trong số các hình ảnh khác nhau của nhân vật, tCapcom 's Destiny of an Emperor (và manga được dựa trên, Tenchi o Kurau) Lã Bố được mô tả như là một người đàn ông da trắng, tóc vàng trái với hình ảnh quen thuộc.
Lã Bố là một trong những chiến binh trong Geo Neo 's World Heroes 2 Jet, mặc dù tên của ông đã thay là "Ryofu," cách phát âm tiếng Nhật của tên của ông.
Nhân vật Ryofu Housen (cách phát âm tiếng nhật của Lã Bố Phụng Tiên), trong anime ikki Tousen, là 1 nhân vật dựa trên Lã Bố.
Trong manga và OVA anime Ryofuko-chan, Lã Bố được thể hiện như là học sinh trường tiểu học Ryofuko.
Trong trò chơi thẻ thu Magic the Gathering có một thẻ tên là Lã Bố.
Trong loạt phim Tam quốc diễn nghĩa được sản xuất năm 2009, diễn viên đóng vai Lã Bố là Hà Nhuận Đông
XI. CHU DU

Chu Du (chữ Hán: 周瑜; 175 - 210) , tên tự là Công Cẩn (公瑾), là danh tướng của nước Đông Ngô thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Trong bộ truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa của nhà văn La Quán Trung có viết rằng do Chu Du đẹp trai và rất giỏi âm luật nên được gọi làMỹ Chu Lang (美周郎). Ông là một nhà quân sự tài ba, chuyên về thủy chiến, chức vụ chính thức là Đại Đô Đốc (Grand Admiral), nên được gọi là Chu Đô Đốc. Chu Du nổi tiếng với chiến thắng ở sông Xích Bích trước quân Tào Tháo, là trận chiến lớn nhất thời đó.
Chu Du sinh ra và lớn lên tại huyện Thư, quận Lư Giang. Lư Giang thuộc vùng Hoài Nam của Trung Nguyên, nhưng rất gần đất Ngô-Việt, ngày nay là Thư Thành, An Huy thuộc nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Gia đình Chu Du đều là danh sĩ, cha ông là Chu Dị từng làm quan huyện Lạc Dương, ông nội ông là Chu Cảnh và chú là Chu Trung từng làm quan Thái úy. Một người chú của Chu Du là Chu Thượng có thời gian làm Thái thú Đan Dương.
Chu Du thời trẻ chơi với Tôn Sách, con của Tôn Kiên, hai người thân nhau như anh em. Khi Tôn Kiên bị giết trong cuộc chiến với Lưu Biểu, họ Tôn một thời gian dài chịu sự khống chế của Viên Thuật. Năm 20 tuổi, Tôn Sách bắt đầu khởi binh ở Lịch Dương, chinh phạt Giang Đông. Chu Du đem binh lương giúp Tôn Sách, và sau đó theo Tôn Sách đánh dẹp khắp nơi, trở thành khai quốc công thần.
Năm Chu Du 24 tuổi đánh chiếm Hoãn Thành và cùng với Tôn Sách đi cầu hôn 2 cô con gái xinh đẹp của Kiều Công. Tôn Sách cưới Đại Kiều, còn Chu Du cưới Tiểu Kiều.
Năm 200, Tôn Sách bị thích khách bắn bị thương rồi chết. Chu Du chuyển từ thành Ba Khâu về Ngô Quận để giúp đỡ Tôn Quyền, lúc ấy còn nhỏ.
Tào Tháo đánh bại Viên Thiệu và đòi Tôn Quyền đưa con trai đến làm con tin. Trương Chiêu sợ có chiến tranh nên không dám quyết định, nhưng Tôn Quyền nghe lời Chu Du và cương quyết từ chối. Tào Tháo cho một người tên là Tưởng Cán, là người quen của Chu Du đến dụ ông, nhưng Tưởng Cán về báo rằng "Chu Du là người có chí hướng cao vời, không thể thuyết phục được".
Năm 208, Lưu Bị thua chạy khỏi đất Trung Nguyên. Lưu Biểu chết bệnh, con là Lưu Tông đầu hàng Tào Tháo. Tào Tháo chiếm được Kinh Châu, lấy danh nghĩa của Hán đế để yêu cầu Tôn Quyền đầu hàng. Lưu Bị cũng cho sứ giả cầu cứu. Các quan nước Ngô chia làm 2 phe, phe chủ hàng do Trương Chiêu cầm đầu, phe chủ chiến do Chu Du và Lỗ Túc đứng đầu. Chu Du phân tích cho Tôn Quyền tình hình chiến lược như sau:
Địa thế: Đất Ngô có sông bao bọc. Tào Tháo không có thủy quân giỏi.
Tình thế: Tào Tháo chưa bình định xong vùng Tây Lương, không thể ở lâu.
Thời điểm: Đang là mùa đông, đất Ngô khí hậu ẩm ướt, quân phương Bắc sẽ sinh bệnh.
Tôn Quyền cho Chu Du và Trình Phổ đi hợp quân với Lưu Bị. Quân Tào đóng ở bờ bắc sông Xích Bích, quân Ngô đóng ở bờ nam.
Trận Xích Bích: Quân của Chu Du ít hơn nhiều, nhưng lại chiếm ưu thế về thủy chiến, Tào Tháo không thể qua sông nên đóng trại ở bờ bắc để huấn luyện quân. Ông ta dùng xích sắt nối thuyền lớn lại theo lối của kị binh Liên Hoàn Mã, gọi đó là "Liên Hoàn Thuyền". Hoàng Cái giả đầu hàng Tào Tháo, và vào một đêm có gió đông nam, quân Ngô dùng hỏa công đánh trại của Tào Tháo, quân Tào thua to bỏ chạy. Do bị liên quân của Tôn Quyền và Lưu Bị đuổi, Tào Tháo cho Tào Nhân giữ Nam Quận, rồi rút về phương bắc. Trận Xích Bích đưa tên tuổi Chu Du nổi lên, và được liệt vào hàng những tướng giỏi của lịch sử Trung Quốc.
Chết trẻ: Chu Du tiến đánh Nam Quận, trong lúc đánh thành thì bị tên bắn trọng thương. Tào Nhân nghe tin thì kéo ra khỏi thành đánh, nhưng Chu Du dù bị thương vẫn huy động quân sĩ đánh bại Tào Nhân. Nhưng mũi tên có độc, vết thương của Chu Du không thể chữa khỏi, đến năm 210 thì chết, khi đó 36 tuổi. Người kế tục ông làm quân sư cho Tôn Quyền là Lỗ Túc.
Chu Du là người yêu âm nhạc, lễ phép khiêm tốn, nhưng trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, ông bị mô tả như một đứa trẻ ngô nghê và nóng tính, bị Gia Cát Lượng chọc tức 3 lần đến chết. Nhà văn còn viết một câu khá nổi tiếng rằng trước khi chết Chu Du phẫn uất mà than: "Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng?". Trong bộ "Tướng Soái Trung Quốc Toàn Truyện" của các tác giả Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Tuyết và Dương Hiệu Xuân có ghi: "đó là lời lẽ của nhà văn, hoàn toàn không đáng tin". La Quán Trung là người "trù dập các tướng lĩnh Ngô, Ngụy và biến các tướng Thục thành thần, nếu các tướng Thục giỏi như vậy, sao cứ thua mãi?".
Chu Du có công cực lớn trong việc giúp nhà họ Tôn lập nên Đông Ngô, là khai quốc đại công thần.
Nhắc đến trong thơ
Chu Du là nhân vật tài hoa, có cá tính đậm nên thường được các thi nhân đời sau nhắc lại, tên của ông hay gắn với trận đại chiến Xích Bích:
Đỗ Mục trong bài "Xích Bích hoài cổ" có 2 câu nổiĐông phong bất dữ Chu Lang tiệnĐồng Tước xuân thâm toả nhị kiều
Nghĩa: Gió đông không giúp Chu Lang thì đài Đồng Tước khoá xuân hai cô Kiều.
Tô Thức thời Tống, trong bài từ nổi tiếng điệu Niệm nô kiều có nhắc đến Chu Du:Đại giang đông khứ,Lãng đào tận thiên cổ phong lưu nhân vật.Cổ luỹ tây biên,Nhân đạo thị Tam Quốc Chu Du Xích Bích
Nghĩa: Sông lớn chảy về Đông, cuốn đi hết thảy nhân vật phong lưu ngàn thuở, thành lớn ở phía Tây người bảo đó là Tam Quốc, Chu Du, Xích Bích.
Tản Đà trong bài hát nói "Hỏi gió" cũng nói về Chu Lang với giọng ngông cuồng:Thử thị Đà Giang, phi Xích BíchDã vô Gia Cát dữ Chu Lang!
Nghĩa: Đây là sông Đà, không phải Xích Bích, không có Gia Cát với Chu Lang.
XII. TÔN SÁCH
Tôn Sách (chữ Hán: 孫策; 175 - 200) là một viên tướng và một lãnh chúa trong thời kỳ cuối của nhà Đông Hán và thời kỳ đầu của Tam Quốc ở Trung Quốc. Ông là con trai trưởng của Tôn Kiên, người đã bị giết chết trong một trận đánh khi Tôn Sách mới 16 tuổi. Tôn Sách sau này rời bỏ khỏi người bạn đồng thời có thể coi là chủ cũ của cha mình là Viên Thuật để tiến về vùng đông nam Trung Quốc nhằm xây dựng cơ sở quyền lực của mình tại đây. Với sự giúp đỡ của một số người có khả năng, như Trương Chiêu và Chu Du, Tôn Sách đã có thể thiết lập nền tảng cho sự ra đời sau này của nhà nước Đông Ngô, mà tại đó em trai của ông là Tôn Quyền cuối cùng đã xưng đế. Sau khi Tôn Quyền lên ngôi vua, ông đã truy phong cho anh trai mình làm Trường Sa Hoàn Vương (長沙桓王).
Năm 200, khi lãnh chúa đang nổi lên là Tào Tháo đang có trận đánh quyết định với Viên Thiệu tại Quan Độ, thì Tôn Sách dường như đã có kế hoạch tấn công kinh đô và căn cứ quân sự của Tào Tháo tại Hứa Xương. Tuy nhiên, ông đã bị ám sát và chết trước khi có thể thực hiện được kế hoạch này.
Tam Quốc Chí miêu tả Tôn Sách là một người thông minh và luôn cười. Ông cũng là người rộng lượng và có đầu óc dễ tiếp thu, có khả năng sử dụng con người theo khả năng của họ. Sách sử viết: Kẻ sĩ nhìn thấy Tôn Sách, không ai không tận tâm, vui vẻ nhận cái chết. Một nhân vật cùng thời là Hứa Cống (許貢), trong một bức thư gửi cho Hán Hiến Đế, đã so sánh Tôn Sách với Hạng Vũ, một mãnh tướng cuối thời kỳ nhà Tần. Do Hạng Vũ thường được gọi là Tây Sở Bá Vương nên Tôn Sách vì thế mà còn được gọi là Tiểu Bá Vương trong văn hóa dân gian Trung Quốc.Tôn Sách tự là Bá Phù (伯符), sinh năm 175 tại Ngô Quận, Phú Xuân, nay là Phú Dương, Hàng Châu, Chiết Giang. Ông là con trai cả trong số 4 (có thể là 5) con trai của thái thú Trường Sa là Tôn Kiên, một viên tướng trung thành với hoàng đế nhà Hán.
Năm 200, khi lãnh chúa đang nổi lên là Tào Tháo đang có trận đánh quyết định với Viên Thiệu tại Quan Độ, thì Tôn Sách dường như đã có kế hoạch tấn công kinh đô và căn cứ quân sự của Tào Tháo tại Hứa Xương. Tuy nhiên, ông đã bị ám sát và chết trước khi có thể thực hiện được kế hoạch này.
Tam Quốc Chí miêu tả Tôn Sách là một người thông minh và luôn cười. Ông cũng là người rộng lượng và có đầu óc dễ tiếp thu, có khả năng sử dụng con người theo khả năng của họ. Sách sử viết: Kẻ sĩ nhìn thấy Tôn Sách, không ai không tận tâm, vui vẻ nhận cái chết. Một nhân vật cùng thời là Hứa Cống (許貢), trong một bức thư gửi cho Hán Hiến Đế, đã so sánh Tôn Sách với Hạng Vũ, một mãnh tướng cuối thời kỳ nhà Tần. Do Hạng Vũ thường được gọi là Tây Sở Bá Vương nên Tôn Sách vì thế mà còn được gọi là Tiểu Bá Vương trong văn hóa dân gian Trung Quốc.Tôn Sách tự là Bá Phù (伯符), sinh năm 175 tại Ngô Quận, Phú Xuân, nay là Phú Dương, Hàng Châu, Chiết Giang. Ông là con trai cả trong số 4 (có thể là 5) con trai của thái thú Trường Sa là Tôn Kiên, một viên tướng trung thành với hoàng đế nhà Hán.
Năm 190, một năm sau khi Hán Linh Đế chết, Đổng Trác tiếm quyền, đưa lên ngai vàng một vị vua bù nhìn là Hán Hiến Đế. Các lãnh chúa khu vực tại miền đông Trung Quốc sau đó đã lập ra liên minh chống Đổng Trác. Tôn Kiên đi theo Viên Thuật, một trong các thủ lĩnh của liên minh. Các cố gắng nhằm loại bỏ ĐổngTrác nhanh chóng bị thất bại và Trung Quốc bị chia cắt bởi một loạt các cuội nội chiến lớn. Năm sau, Viên Thuật cử Tôn Kiên đem quân đánh Lưu Biểu, Thứ sử Kinh Châu (荆州, ngày nay là Hồ Bắc và Hồ Nam), nhưng đã bị bộ hạ của Lưu Biểu là Hoàng Tổ đem quân mai phục và giết chết.
Tôn Sách đem thi hài cha mình về Khúc A (曲阿, ngày nay thuộc Giang Tô) để chôn cất trước khi tiến về Đan Dương (丹楊, ngày nay là Tuyên Thành, An Huy), tại đó cậu của ông là Ngô Cảnh (吳景) đang làm thái thú. Sau đó ông lập ra một đội quân nhỏ vài trăm người. Lực lượng nhỏ này là quá yếu ớt để ông có thể thiết lập quyền lực riêng của chính mình, vì thế năm194 Tôn Sách lại theo Viên Thuật.
Năm 200, Tào Tháo đánh trận quyết định với Viên Thiệu tại Quan Độ, dọc theo bờ sông Hoàng Hà, để kinh đô và căn cứ của ông ta tại Hứa Xương vào tình thế ít được bảo vệ. Người ta cho rằng Tôn Sách đã vạch ra kế hoạch tấn công Hứa Xương dưới ngọn cờ giải cứu Hán Hiến Đế, khi đó đang bị Tào Tháo kiểm soát gắt gao. Công việc chuẩn bị cho cuộc tấn công đang diễn ra thì Tôn Sách bị rơi vào nơi phục kích của 3 bộ hạ cũ của Hứa Cống trong một cuộc đi săn đơn độc. Một trong số ba người này đã kịp bắn một mũi tên trúng má Tôn Sách trước khi người của Tôn Sách kịp đến và giết chết những kẻ ám sát. Về cái chết của Tôn Sách có nhiều giả thiết khác nhau (xem dưới đây). Một kịch bản được chấp nhận nhiều nhất là ông ta chết ngay trong đêm đó.
Một kịch bản khác cho rằng Tôn Sách còn sống thêm được một thời gian nữa. Các thầy thuốc nói với Tôn Sách là ông cần phải nghỉ ngơi đúng 100 ngày để vết thương được bình phục, nhưng một hôm Tôn Sách nhìn vào trong gương và khi nhìn thấy vết sẹo đã điên tiết lên và đập vỡ bàn. Chuyển động mạnh đã làm vết thương vỡ ra và ông chết trong đêm đó. Mặc dù khi đó có một con trai chưa sinh ra, nhưng Tôn Sách đã truyền lại di sản cho em trai là Tôn Quyền. Năm 222, khi Tôn Quyền tự xưng làm hoàng đế đầu tiên của Đông Ngô, ông đã phong Tôn Sách làm Trường Sa Hoàn Vương (長沙桓王).
Dòng dõi Tôn Sách được kế tiếp bằng con trai sinh ra sau khi cha mất là Tôn Thiệu (孫紹), cũng như ít nhất là hai (có thể là ba) con gái, một người lấy Chu Kỷ (朱紀), người kia lấy Cố Thiệu (顧卲) và sau đó là Lục Tốn (陆逊). Tôn Thiệu sinh được một con trai là Tôn Phụng (孫奉), sau này bị Tôn Hạo tử hình với tội danh được gán cho là phản bội do ông này rất nổi tiếng.
XII. TÔN QUYỀN
Tôn Quyền (chữ Hán: 孫權; 182 – 252), tự là Trọng Mưu (仲謀), người Phú Xuân, Ngô Quận (nay là Phú Dương, Chiết Giang). Ông là người xây dựng nước Ngô thời Tam Quốc. Cuối đời Đông Hán, sau khi cha Tôn Quyền là Tôn Kiên, anh ông là Tôn Sách đã chiếm cứ 6 quận Giang Đông làm căn cứ kình chống nhau giữa các phe phái quân phiệt. Tôn Sách gây dựng cơ nghiệp không lâu sau thì bị kẻ có tư thù giết hại trong một cuộc đi săn. Trước khi chết, Tôn Sách nói với những mưu thần như Trương Chiêu hãy giúp Tôn Quyền.
Tôn Quyền mới 18 tuổi đã nối chức vụ của anh mình, trở thành người thống trị tối cao ở Giang Đông. Do Tôn Quyền có tài, lại chú ý đoàn kết lực lượng các phe, nên nhanh chóng dành được uy vọng, khiến cục thế Đông Ngô ổn định trong thời hỗn loạn.
Đối ngoại
Năm 208, Tôn Quyền nghe tin Tào Tháo tiến vào Kinh Châu, lập tức phái Lỗ Túc lấy danh nghĩa viếng Lưu Biểu bị bệnh vừa mất để dò xét thực hư. Sau đó Lỗ Túc tìm gặp Lưu Bị bàn việc liên hiệp chống Tào.
Trong khi nội bộ Đông Ngô thảo luận, có người sợ uy lực Tào Tháo, đề nghị hàng Tào, bị bọn Lỗ Túc, Chu Du kiên quyết phản đối. Họ kiên trì chủ trương chống Tào, do đó củng cố quyết tâm của Tôn Quyền. Ông cử Chu Du mang 3 vạn quân ra chống Tào Tháo, bản thân mình cũng đóng quân ở Sài Tang hiệp trợ. Kết quả trong trận Xích Bích, liên minh Tôn-Lưu đại thắng quân Tào, củng cố nên thống trị của Tôn Quyền ở Giang Đông.
Mùa hạ năm 219, Tôn Quyền thừa lúc Quan Vũ dốc quân Kinh Châu đánh Tào Nguỵ ở phía Bắc giành được thắng lợi nhỏ nhặt, pháiLã Mông dẫn 2 vạn quân kéo đến đánh lấy Kinh Châu. Từ đó Đông Ngô khống chế toàn bộ phía nam sông Trường Giang, gồm Kinh châu và Dương châu.
Tháng 7 năm 221, Tôn Quyền lại phái Lục Tốn cầm quân ra chống Lưu Bị. Hai bên giằng co 7, 8 tháng. Lục Tốn dùng chiến thuật "Thành cao hào sâu", không chịu ra đấu, dùng hoả công đánh quân Thục ở Di Lăng, giành được đại thắng.
Đối nội
Năm 229, Tôn Quyền xưng đế ở Vũ Xương, lấy quốc hiệu là Ngô, sau dời đô đến Kiến Nghiệp (nay là thành phố Nam Kinh, Giang Tô).
Tôn Quyền đối nội thống trị rất nghiêm khắc, đánh thuế nhiều và nặng. Có người khuyên ông:Ra uy với kẻ tiểu nhân cần dùng hình phạt nặng, nếu đơn độc ngồi giữ Giang Đông thì binh lực hiện có cũng đủ dùng rồi, nhưng đơn độc ngồi giữ Giang Đông không khỏi là hạn hẹp, vẫn cần điều binh trước.
Do đó, Tôn Quyền hết sức phát triển xuống dải đất Đông Nam. Để mở mang miền ven. Năm 230, Tôn Quyền phái đội thuyền người, do tướng quân Vệ Ôn và Gia Cát Trực suất lĩnh ra biển, đến Di Châu (nay là Đài Loan). Đó là sự ghi chép sớm nhất, minh xác nhất trong văn hiến hiện có liên quan đến việc qua lại giữa Trung Hoa đại lục và Đài Loan. Tôn Quyền đem quân tiến về hướng Đông Nam, thúc đẩy việc mở mang một dải đất khu vực này và thực hiện dung hợp dân tộc. Tôn Quyền đã từng sai thứ sử Lục Dận sang Giao Châu (nay thuộc Việt Nam) để đàn áp cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu.
Tài năng của ông thậm chí Tào Tháo cũng phải khen ngợi: Sinh con nên như Tôn Trọng Mưu.
Năm 252, Tôn Quyền qua đời, hưởng thọ 71 tuổi. Ông được truy tôn là Ngô Đại Đế. Thái tử Tôn Lượng lên nối ngôi, nước Ngô phát sinh lục đục nội bộ và suy yếu.
Một số hình anh trong TAM QUỐC DIỄN NGHĨA
Trái sang, trên xuống :
NGỤY
Tào Tháo, Tư Mã Ý, Điển Vi, Hạ Hầu Đôn, Hứa Chử, Từ Hoảng, Tào Nhân, Hạ Hầu Uyên, Trương Liêu, Bàng Đức.

THỤC
Lưu Bị, Khổng Minh, Bàng Thống, Quân Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung

NGÔ
Tôn Quyền, Chu Du, Hoàng Cái, Cam Ninh, Lã Mông, Thái Sử Từ, Chu Thái, Lăng Thống.

Còn thiếu nhiều lắm : Tào Hồng, Trương Cáp, Nhạc Tiến, Lý Điển...(Nguỵ), Khương Duy, Quan Hưng, Trương Bào, Liêu Hoá...(Thục), Trình Phổ, Hàn Đương, Đổng Tập, Phan Chương, Trần Võ...(Ngô).
NGỤY
Tào Tháo, Tư Mã Ý, Điển Vi, Hạ Hầu Đôn, Hứa Chử, Từ Hoảng, Tào Nhân, Hạ Hầu Uyên, Trương Liêu, Bàng Đức.

THỤC
Lưu Bị, Khổng Minh, Bàng Thống, Quân Vũ, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung

NGÔ
Tôn Quyền, Chu Du, Hoàng Cái, Cam Ninh, Lã Mông, Thái Sử Từ, Chu Thái, Lăng Thống.

Còn thiếu nhiều lắm : Tào Hồng, Trương Cáp, Nhạc Tiến, Lý Điển...(Nguỵ), Khương Duy, Quan Hưng, Trương Bào, Liêu Hoá...(Thục), Trình Phổ, Hàn Đương, Đổng Tập, Phan Chương, Trần Võ...(Ngô).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét