Thứ Bảy, 8 tháng 5, 2010

HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG

HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG
Hải Thượng Lãn Ông tên thật là Lê Hữu Trác, sinh ngày 12 tháng 11 năm 1720 (Canh Tý). Mất năm 1791. Nguyên quán ở thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Hưng. Ông là nhà Y Học có học vấn uyên bát. Lê Hữu Trác xuất thân từ gia đình học giỏi đổ cao, Năm 1740 tham gia vào quân đội Chúa Trịnh. làm quan to của triều vua Lê, Chúa Trịnh.  Ông nội là Lê Hữu Danh, đậu nhị giáp Tiến Sĩ. Cha là Lê Hữu Mưu, đậu đệ tam giáp Tiến Sĩ, làm quan dưới triều Lê Diệu Tôn tới bậc thượng thư. Mẹ Ông là Bùi Thị Thưởng. Quê ở xã Bầu Thượng, huyện hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Biệt hiệu Hải Thượng do 2 chữ đầu tỉnh Hải Dương và tên Phủ Thượng Hồng. Nhưng cũng có thể chữ Bầu Thượng là quê mẹ và là nơi Hải Thương ở lâu nhất, từ năm 26 tuổi đến khi mất. Hải Thượng Lãn Ông có nghĩa là Ông lười ở Hải Thượng. Nhưng thực tế chúng ta thấy lười ở đây là lười với công danh phú quý nhưng chăm chỉ với sự nghiệp chữa bệnh cứu người. Ông là con thứ bảy, theo cha lên ở kinh thành Thăng Long. Hồi nhỏ ông đã nổi tiếng thông minh, học giỏi hiểu rộng, thơ hay.và đã thi vào tam trường. Năm 19 tuổi cha mất sớn nên Lê Hữu Trác phải thôi học về chịu tang cha. Lúc này khắp nơi nghĩa quân nổi lên chống chính sách hà khắc của Chúa Trịnh. Nhân dân rất khổ sở. Nghĩa quân lại nổi ngay làng bên cạnh của quê hương nên không thể ngồi yên mà học được. Lê Hữu Trác đành xếp bút nghiên theo nghiệp tiến cung. Nhưng để chuẩn bị tiến cung, Lê Hữu Trác đã có những ý kiến khác với nhiều thanh niên thời đó. Ông đã tìm gặp một ẩn sĩ họ Vũ ở làng Đặng xã huyện Hoài An, rất giỏi về môn thiên nhân. Một môn học về Thiên Văn Địa Lý, bày binh bố trận, bói toán, dạy cho thuật âm dương. Sau vài năm nghiên cứu thuật âm dương, Lê Hữu Trác mới đeo gươm tòng quân. Lê Hữu Trác đã viết về thời kỳ này của đời mình như sau: Tôi nghiên cứu thuật âm dương trong vòng vài năm cũng biết được đại khái mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức học của mình. Vượt bao phen nguy hiểm tôi cũng được bình yên. Nhưng kế hoạch trù tính trong quân cơ phần nhiều đều phù hợp. Thống tướng của Chúa Trịnh nhiều phen đề bạc nhưng tôi nghĩ: Chí bình sinh chưa thỏa mãn thì cầu cậy làm chi. Rõ ràng đây là công việc không hợp ý Lê Hữu Trác, khi được tin người anh mất, Lê Hữu Trác xin ra khỏi quân ngủ. Lấy cớ vế thay anh nuôi mẹ già 70 tuổi và mấy cháu mồ côi ở Hương Sơn.
Ở quê không lâu Lê Hữu Trác bị ốm nặng chữa hai ba năm liên không khỏi.Lê Hữu Trác đến nhà Thầy thuốc Trần Độc ở xã hữu Thành huyện thanh chương. Nay là xã Nam Trung, xã Nam Đàn Tỉnh Nghệ An, Ông đã thi đỗ cử nhân rồi ở nhà làm thuốc được nhân dân rất tính nhiệm. Qua hơn một năm ở nhà thầy thuốc, Lê Hữu Trác đã khỉ bệnh. Trong thời gian nằm chữa bệnh ở đây những lúc rỗi rãi, Lê Hữu Trác mược bộ sách Phung Thi Cẩm Nang Trung Quốc để đọc. Phần lớn đều thấu hiểu. Thầy thuốc Trần Độc lấy làm lạ, rồi có ý muốn truyền đạt nghề mình cho Lê Hữu Trác. Mặc dù lúc này Lê Hữu Trác đã phát hiện thấy trên đời còn một việc rất quan trọng đối với con người la bảo vệ sức khỏe, chũa bệnh cứu người nhưng vẫn chưa quyết chí học thuốc. Ông đã viết: Những chỗ ý nghĩa sâu xa về vật lý âm dương trong sách thuốc tôi đều hiểu thấu, Trần Tiên sinh lấy làm lạ muốn đem cái hiểu biết về y học dạy cho tôi. Nhưng lúc bấy giờ vì bận việc tôi chưa chú ý học. Đến khi Lê Hữu Trác 30 tuổi sức khỏe đã trở lại, tướng của chúa Trịnh cho mời Lê Hữu Ttrác trở về quân ngũ. Lê Hữu Trác quyết cố ý xin từ và lúc này mới xin học thuốc.
Lê Hữu trác viết: Cái chí bon chen trong trương danh lợi mình đã vứt bỏ đi lâu rồi nên lấy cớ là còn mẹ già không bô bỏ đi xa được. Ông trở lại Hương Sơn làm nhà ở ven rừng quyết chí học thuốc tìm đọc khắp các sách đêm ngày mày miệt từng giây phút. Từ đấy Lê Hữu Trác lấy biệt danh là Hải Thương Lãn Ông.
Vì nơi ở của Hải Thượng Lãn Ông rất hẻo lánh, trên không có thầy giỏi để học, dưới không có bạn hiền giúp cho, Hải Thượng Lãn Ông phải tự học là chính. Để việc học tập có hiệu quả hơn, Hải Thượng Lãn Ông làm bạn với một thầy thuốc nữa cũng họ Trần ở làng Đỗ Xã gần làng Tịnh Diệm để cùng nhau trao đổi những kiến thưc thu thập được trong khi đọc sách.
Do kiến thức rộng chẩn bệnh kê đơn thận trọng nên Hải Thương Lãn Ông đã chữa rất nhiềui trường hợp khó mà người khác không chữa khỏi. Tên tuổi Ông lan nhanh khắp nơi đến tận thủ đô Thăng Long. Trong thời kỳ này cùng với việc chữa bệnh, Hải Thượng Lãn Ông đã mở trường đào tạo thầy thuốc. Người ven vùng và các nơi xa nghe tiếng tìm đến học. Vừa chữa bệnh vừa dạy học Hải Thương Lãn Ông vừa biên soạn sách. Ông nghĩ rằng: ‘’Tôi thấy y lý bao la, sách phải chồng chất chia môn xếp loại tản mạn vô cùng. Những sách do nhưng bậc tiền bối hiền triết lượn về bệnh về ý nghĩa đơn thuốc, về tính dị bài thuốc có nhiều chỗ chưa nói đến nơi đến chốn. Tất phải thâu tóm hàng trăm cuốn đúc thành một pho để tiện xem tiện đọc ‘’. Năm 62 tuổi Hải Thượng Lẫn Ông được chúa Trịnh Sâm triệu ra thủ đo Thăng Long để chữa bệnh cho con là Trịnh Cáng. Việc ra thủ đô vì lúc tuổi già, đó là một điều bất đắc dĩ đối với Hải Thượng. Nhưng lòng mong ước được nhân dịp này tìm cách in ra để phổ biến rộng rãi tác phẩm của mình, vì vậy Hải Thương ra đi. Hải Thương đã kể lại tâm của mình trong tập Thư Kinh ký sự. Kể chuyện ra thủ đô về lúc này như sau: ‘’ Bây giờ tôi bức rức là không biết chừng nào, suốt đêm không ngủ tôi nghĩ mình lúc trẻ mày gươm đọc sách, rồi nay đây mai đó, trong 15 năm đã không làm nên công trạng gì. Nay đã vứt bỏ công danh về ở ẩn núi Hương Sơn, dựng lều nuôi mẹ, đọc sách mong tiêu giao trong vườn đạo lý của hoàng đế Kỳ Bá. Hai tổ sư của đông y, tự lấy việc giữ gìn cho mình cứu giúp là đắc sách. Anh ở này lại khổ về cái hư danh nhưng mình đã dày công nghiên cứu y học trong vòng 30 năm soạn được bộ Tâm Lĩnh. Không dám truyền thụ riêng cho ai chỉ muốn đem ra công bố cho mọi người cùng biết. Nhưng việc thì nặng sức lại mỏng khó mà làm được Quỷ Thần thấu hiểu lòng mình. Chuyến này đi có chỗ may .Đây cũng là chưa biết chừng không may cho Hải Thượng. Ra thủ đô ở gần một năm trời cả hai việc đều không thành. Đến thủ đô Hải Thượng được đưa vào khám bệnh ngay cho Triệu Cáng. Nhưng đơn thuốc kê lên bị các thầy thuốc khác trong phủ chữa dèm pha và không được dùng, sách thuốc cũng chẳng tìm đươc ai chịu trách nhiệm cho in. Nhưng cũng chính trong chuyến đi này Hải Thượng đã rất vui mừng được biết sách thuốc của mình biên sọan không những đã được học trò sao chép dùng tại chỗ mà còn được đưa đi rất xa tới tận thủ đô. Và có người nhờ học sách thuốc của mình mà đã trở thành thầy thuốc giỏi. Nên đã lập bàn thờ để thờ sống Hải Thượng để tỏ lòng nhớ ơn. Cuối năm 1782, Hải Thượng Lãn Ông trở lại Hương Sơn tiếp tục dạy học, biên soạn một số tập trong toàn bộ tác phẩm Y Tông Tâm Lĩnh cho đến khi Ông mất. Nhân dân tán mộ Hải Thương ở trên núi MinhTừ Khe nước cạn. Cách thị trấn phố châu huyện Hương Sơn 4 km, hiện nay vẫn còn.
Qua gần 40 năm, ông tổng kết tinh hoa của y học Trung Quốc và Việt Nam,và biên soạn bộ “ Y Tông Tâm Lĩnh” gồm 28 tập, 66 cuốn.
Vệ Sinh Yếu Quyết là một tác phẫm quan trọng nhất của ông, trong đó ông nêu rõ các phương pháp vệ sinh toàn diện , luyện tập vận động , vệ sinh hoàn cảnh, phòng bệnh, đề phòng tai nạn đặc biệt là các chĩ dẫn về Tình Dục rất rõ ràng chính xác, mà các bài viết của các nhà Y Học Tình Dục hiện đại cũng chưa dám đề cập bạch văn như ông .
Ông có viết: Người xưa nói: Người ta có 3 cái quý là Tinh, Khí, Thần. Nếu giữ được Thần, vững được Khí, vẹn được Tinh thì mọi tật không sinh ra được, ông nói:
Giữ tinh, dưỡng khí tồn thần,
Tinh không hao tán thì thần được yên.
Các nhà Y Học cổ đại của Trung quốc cũng có cùng một nhận xét như Hải Thượng Lãn Ông  “ Tiết dục để tồn trữ tinh lực, tăng cường hoạt năng của tinh trùng, luyện tập sức đề kháng và duy trì trí lực. Tiết dục có lợi cho cả thân thể và tinh thần”.
Bành Tổ trả lời: “Giữ tinh khí, thu dưỡng tinh thần. uống các thứ thuốc bổ dưỡng thì có thể trẻ mãi không già. Tuy nhiên nếu đã có ba thứ trên mà không biết cách giao hợp cho phải phép thì cũng vô ích thôi.
Đạo giao hợp là hợp thành nhất thể với người giao hợp. Nếu không biết nguyên tắc đó thì bị thương thân bại thể có khi còn táng mạng nữa”.
Hoàng Đế nói: “Nguyên tắc tiết độ trong việc nam nữ giao hợp là nguyên tắc nào?”.
Tố nữ đáp: “Nam nữ giao hợp là thuận theo căn bản âm dương của trời đất. Nhưng không nên để lệch đi khiến cho nam nhân càng ngày càng suy hoại thân thể trong khi nữ nhân được bách bệnh tiêu trừ. Đôi bên phải thân tâm sướng khoái, thân cường khí thạnh, mạnh mẽ sung khí mới là nguyên tắc. Nếu không theo đạo âm dương thì thân thể ngày càng suy vi, vì vậy các yếu tố căn bản của giao hợp là:
· An định sự háo hức.
· Tâm trạng hứng thú.
· Tinh thần sung mãn.
Hoàng Đế hỏi: “Tại sao gọi là nguyên tắc âm dương giao hợp?”
Tố Nữ đáp: “Nam nữ giao hợp là chuyện tự nhiên của trời đất, của sự tạo thành chủng tộc không mất. Do thuận lẽ âm dương mà nam nhân tinh cường khí tráng. Do thuận lẽ âm dương mà nữ nhân bách bệnh tiêu trừ.. Nếu không hiểu nguyên lý giao hợp thì thân thể ngày càng thương tổn, suy yếu.
Vậy cái đạo giao hợp phải như thế nào?
Đó là chỉ giao hợp khi:
· Tâm tình an định.
· Ý khí hòa hài.
· Tình tự ổn định.
· Thân tâm nhất chí.
· Y thử dưỡng sinh.
· Không nóng quá, lạnh quá.
· Không no quá, đói quá
· Tâm tư quang minh, hành vi rõ ràng.
· Tính tình tự nhiên, thần thái ung dung.
Trong Tác phẫm Vệ Sinh Yếu Quyết Hải thượng Lãn Ông viết:
Sau khi giao hợp xong nên nằm ngữa, ruỗi thẳng chân, buông thẳng tay, đầu yên trên gối, gót chân tỳ vào giường, ưỡn mình cong lên, cố nín thở, lắc thân mình 3 đến 5 lượt. Như thế lá cách làm cho Thận Thủy hoàn lại chỗ. Nếu thấy mặt nóng bừng là Tinh Khí đã lên đến chỗ Đan Điền phía trên, thì lập tức dùng hai tay xoa vuốt lên da mặt, như thế là lối tắm khô để cho nhiễt khí đi qua. Kế tiếp mím môôi nín thở , đá lưỡi vào vòm miệng cho tiết ra nước miếng rồi nuốt xuống Đan Điền phía dưới để cho Tinh Khí chu lưu. Đó là cách Bổ Tinh Hoàn Tủy.
Khi bàn về việc Giao Hợp thì ông khuyến cáo không nên giao hợp trong những trường hợp như sau: Khi nắng nóng, giá rét, nằm giữa trời, trước bếp, sau giếng, khi mưa gió sấm chớp hay trước đền thờ đình miếu. Nên kiêng kỵ giao hợp trong tình trạng tinh thần hay sức khỏe mõi mệt, đau yếu, trong lúc sợ hãi hay tức giận, trong lúc ăn no, say rượu.
No say phòng dục đòi khi
Chân nguyên hao tán chỉ vì kiệt tinh
hoặc là:
Ruợu say rồi lại nhập phòng
Khỏi sao tích trệ phạm phòng chết non.
Không nên giao hợp lúc chưa tới tuổi trưởng thành, trước lúc đi xa hay lúc đi xa trở về đang mệt nhọc.
Đợi khi nam nữ trưởng thành
Để cho thiên quý, âm tinh vẹn toàn
Đến kỳ rồi mới kết hôn.
Không giao hợp khi phụ nữ đang hành kinh hay bệnh vừa mới khỏi.
Khi kinh chưa sạch chớ liều ngủ chung
Nhập phòng uất giận can cung
Dễ sinh băng lậu khó lòng cầm ngay.
Phòng dục là  việc cần ngừa,
Trăm ngày kiêng cử cũng chưa an toàn.
Đối với Y học phương đông mà đại diện là Y Học Trung Quốc thì những cấm kỵ đó là gì? Sách Tố Nữ ghi lại sáu điều cấm kỵ như sau:
- Kỵ thứ nhất: không được giao hợp vào ngày đầu tháng âm lịch lúc trăng tròn và cuối tháng.
- Kỵ thứ hai: khi có sấm sét, mưa gió, đất thảm trời sầu, động đất, tránh không được giao hợp.
- Kỵ thứ ba: không nên giao hợp khi đã ăn quá no hay khi đương cơn say.
- Kỵ thứ tư: không nên giao hợp khi vừa mới đi tiểu xong.
- Kỵ thứ năm: tránh giao hợp khi người đã mất sức vì mệt nhọc như đi bộ, lao động nặng, mệt mỏi chưa phục hồi, trong minh bãi hoải.
- Kỵ thứ sáu: không nên giao hợp liền khi đương nói chuyện với nữ nhân mà hứng tình.
Theo Kinh Dịch thì các điều cấm là:
- Điều cấm thứ nhất là vì các ngày tháng này tương ngày âm thần.
- Điều cấm thứ hai là vì các ngày giờ này là tương đương thiên kỵ. Điều cấm này cũng hấy nhắc đến trong sách Lễ Ký. Sách Lễ Ký chép rằng khi trời nổi cơn mưa gió sấm xét thì không nên thụ thai vì đó là lúc thiên nhiên đang cường nộ, người giao hợp dễ bị phong đơn.
- Điều cấm thứ ba thuộc về nhân kỵ: Ăn no sẽ ảnh hưởng đến tì (bao tử), hỉ nộ, bi, thương sẽ bị ảnh hưởng đến nội trạng.
- Ngoài ra còn có địa kỵ đó là không được giao hợp trong đền chùa, thần miếu, giếng nước, chỗ nhà bếp,  nơi cầu, chỗ mồ mà, cạnh quan tài.
- Điều cấm kỵ thứ tư là không được giao hợp khi mới tiểu xong. Sách “Ngọc phòng bí quyết” có đoạn nói rằng sau khi tiểu xong thì tinh khí hao hụt, các mạch đạo không thông, trong tình trạng như vậy mà giao hợp thì đương nhiên bị tổn thương nội trạng. Nếu giao hợp thụ thai được người mẹ sẽ bị tổn thọ.
Sách “Dưỡng Sinh Yếu Luận“, một quyển sách của đạo gia có ghi chuyện đạo sĩ Lưu Kinh.
· Mùa xuân 3 ngày giao hợp có xuất tinh một lần.
· Mùa hạ, mùa thu thì một tháng hai lần.
· Mùa đông không nên xuất tinh.
Lưu Kinh cho rằng sinh hoạt tình dục tuỳ theo mùa mà phù hợp với sinh hoạt của thiên nhiên. Nguyên tắc của thiên nhiên là “Xuân xanh, Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàn”. Mùa Đông thì thu về, tàng trữ, không cho ra vì không thể sinh sôi nẩy nở được. Quan niệm giao hợp liên hệ với mùa trong năm không phải không có lý của nó, ngay cả người Việt Nam vẫn còn chọn tháng, năm để sinh con.
Sách “Dưỡng Sinh Tập” cũng có ghi tương tự như sách “Dương sinh yếu luận”chỉ thêm một điều là:”Mùa Đông xuất tinh một lần bằng mùa Xuân xuất tinh một trăm lần”vì mùa Xuân dương khí hạnh mậu, sung mãn, trong khi đó mùa đông là mùa của âm khí.
Sách “Phòng Trung Thuật” thì nói rõ là việc giao hợp nên ” Xuân nhất, Hạ nhị, Thu nhất, Đông vô “.
Với Y Học hiện đại, các nhà khoa học nhận thấy rằng việc giao hợp chỉ nên xãy ra khi hệ sinh dục bên trong và bên ngoài phát triển đầy đủ và chín mùi tức là đã vào tuỗi trưởng thành về cả hai mặt sinh lý và tâm lý , ổn dịnh về mặt cá nhân và xã hội, có công ăn việc làm, có ý thức về xây dựng gia đình, chọn thời điễm có con…
Về vấn đề tiết dục và nhịp độ sinh hoặt tình dục thì cũng không khác với quan niệm của người xưa, nhưng có những chỉ dẫn riêng cho các bênh tật đặc biệt như bệnh về tim mạch, cao huyết áp, nhồi máu cơ tim , bệnh tâm thần …phụ nữ trong lúc mang thai hay đang có vấn đề bệnh phụ khoa….
Vấn đề ngừa thai và tránh lây nhiễm các bệnh do quan hệ tình dục là ý thức  mấu chốt trong thời đại hiện nay mà con người quan tâm.
ĐẠI DANH TUỆ TĨNH_THIỀN, Y VÀ TÂM
 

                                         
  “Danh khôi nhị thập giáp tiêu Trần giám.
   Sứ mệnh thập toàn tỉnh Băc y”.
          “Danh đầu nhị giáp, nêu gương khoa bảng đời Trần,
          Sứ mệnh vẹn tròn, trổ tài y học đất Bắc.”

Giở lại những trang sử vàng của Ông Cha ngày xưa Ngọc Ánh tôi đã tìm thấy một nhân kiệt rất đặc biệt. Với sự khâm phục trong lòng Ngọc Ánh tôi muốn góp nhặt một ít lá khô trong rừng lịch sử của dân tộc. Ánh muốn tô một về những gì của người đã cho luôn sống mãi trong lòng chúng ta. Trong lịch sử thì có rất nhiều danh nhân nổi tiếng, nhân vật Ngọc Ánh muốn nhắc đến đó là Tuệ Tĩnh vào thời vua Tần Dụ Tông (1341 – 1369 ) thế kỷ thứ XIV. 
Tuệ Tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh. Khi đi tu Ông lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh (Huệ Tĩnh) thân từ một gia đình bần nông, cha là Nguyên Công Vỹ, me là Hoàng Thị Ngọc ở Nghĩa Lư, huyện Dạ Cẩm, Hồng Châu (nay là thôn Nghĩa Phú, xã Cầm Vũ, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Hưng. Ông sinh năm 1343, tại làng Nghĩa Phú, Tống Văn Thái, Phủ Thượng Hồng , Huyện Cấm Giang, tỉnh Hải Dương. Lúc lên 6 tuổi cha mẹ ông đều mất, Ông đựơc nhà sư chùa Hải Triều, xã Hải Triều, Yên Trang (tức chùa Giám ngày nay) đưa về nuôi và cho ăn học ở chùa Keo (Thái Bình). Vì nơi đó bị đất lở, đã dời đến xã Tân Sơn cùng huyện Cẩm Bình). Đến 10 tuổi, Bá Tĩnh lại được sư cụ chùa Giao Thủy ở Sơn Nam (Nam Đình) đưa về cho ở học với nhà sư chùa Dũng Nhuệ trong huyện. ở đầy, ông được gọi là Tiểu Huệ, nên có biệt danh là Huệ Tĩnh. Ông được học vǎn và học thuốc để giúp việc chữa bệnh ở chùa.
Đến 22 tuổi, ông đi thi hương trúng bảng, nhưng vẫn ở chùa đi tu lấy pháp hiệu là Tuệ Tĩnh. ông tiếp tục việc chữa bệnh giúp dân ở chùa này và phát triển thêm một số cơ sở chữa bệnh ở các chùa lân cận, như chùa Hộ Xá (Nghĩa Xá). Nǎm Giáp Dần (1374), niên hiệu Long Khánh (Trần Duệ Tông), ông đậu đệ nhị giáp tiến sĩ tức Hoàng Giáp. Ông thông minh lỗi lạc, nhưng không ra làm quan mà ở lại chùa thuộc Hạc Giao Thủy và Hạc Cẩm Giàng tỉnh Hải Dương để tu hành, theo nghề làm thuốc. Tuệ Tĩnh gây phong trào trồng thuốc tự túc ở vườn chùa, vườn đền, ở gia đình và viết sách thuốc để phổ biến, dạy cho dân chúng dùng thuốc nam để chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe phục vụ nhân dân nghèo khổ. Tuệ Tĩnh đã nghiên cứu những cây cỏ ở Việt Nam viết thành sách thuốc với ý nghĩa các bài thuốc giản dị thường dùng trong dân gian, đó là thột thời kỳ mà thuốc bắc đang thịnh hành . Ông đã trao dồi kinh nghiệm trị bệnh của các trung y, và xây dựng được một sự nghiệp y dược có tính chất dân tộc, đại chúng và sáng tạo. Nǎm 55 tuổi ông bị bắt đi sứ sang Trung Quốc để chữa bệnh cho Tống Vương Phi (vợ vua Minh). Ông đã chữa khỏi bệnh sản hậu nên được phong là "Ðại Y Thiền Sư". Ông được nhà Minh giữ lại làm việc ở Viện Thái y, rồi mất ở bèn ấy, không rõ nǎm nào. Hiện nay ở các đền thờ ông, có các câu đối ngụ ý về các sự tích đó. Thí dụ ở đền bia làng Văn Thai có câu: 
Hoàng giáp phương danh đằng Bắc địa, Thánh sư diệu dược trấn Nam Bang. Ðược tạm dịch như sau: Thi đậu Hoàng giáp tiếng lừng Trung Quốc Chữa bệnh thần diệu tài quán Nam Bang. 
Về phật học, ông đã giải nghĩa bằng chữ nôm sách Thiền tông khóa hư lục của vua Trần Thái Tông soạn: Về y học ông đã soạn các sách Dược tính chỉ nam và Thập tam phương gia giảm (theo Hải Dương phong vật chí), nhưng phần nguyên tác của Tuệ Tĩnh không còn tròn vẹn do binh hỏa, cụ thể các thư tịch của ta đã bị quân nhà Minh phá hủy hòi đầu thế kỷ XV khi chúng sang xâm chiếm nước ta. Những tác phẩm còn lại đến nay đều do người đời sau biên tập lại với tài liệu thu thập trong nhân dân. Hiện có:

1 Bộ Nam dược thần hiệu, do Hòa thượng Bản Lai ở chùa Hồng Phúc ở Trung Đô (phố Hòe Nhai, dốc Hàng Than, Hà Nội ngày nay) biên tập, bổ sung và in lại nǎm 1 761, gồm Bản thảo dược tính 499 vị, (bằng thơ) và 10 khoa chữa bệnh, với 3932 phương thuốc nam ứng trị 184 loại bệnh, kèm theo môn thuốc chữa gia súc.
2. Nam dược chính bản, do triều Lê Dụ Tông đổi tên là Hồng nghĩa giác tư y thư và in lại nǎm 1717, quyển thượng gồm: Nam dược quốc ngữ phú (danh từ được học 590 vị thuốc nam). Trực giải chỉ nam dược tính phú (220 vị thuốc nam và một thiên Y luận về lý luận cơ bản, âm dương ngũ hành, tạng phủ, kinh mạch (thiên này xuất hiện ở bản in lại nǎm 1 723: AB. 288)
3 Thập tam phương gia giảm, phụ Bổ âm đơn và Dược tính phú (242 vị.) bằng chữ Hán, gồm 13 cổ phương đông y và phương Bổ âm đơn do tác giả sáng chế cùng phương pháp. Bài diễn ca đã tham khảo có cả lời mở đầu và lời kết. Đại thể về phần 13 phương và các vị thuốc gia giảm thì diễn tương đối đúng, trừ một vài chi tiết. Nhưng về phần diễn đạt các câu văn thì không thật sát nguyên bản và có khi đã phát triển rộng ra, dẫn tới sai lệch với tính nguyên tác. Thí dụ: lời tựa, bản 2 có những những từ Hạnh viên, Xuân Phong thì các bài diễn là Hạnh đàn nhân thuở hồi xuân. Câu mẫn sinh dân chi yểi trát, trạch hiền triết chi phương thang thì diễn là Vâng lời đức thánh Phục Hy, thương chưng yểu trát bất thì kham ngu. Câu Cầu y bất nhược tu thân tế nhân bản năng tích phúc, Cố sự lịch khả thành hạnh viên dã, Chữ sư lịch đã được diễn là chỉn nay sư lịch tài hèn ở lời mở đầu, lại còn được diễn ở lời kết một lần nữa. Sãi nay sư lịch vốn hèn, thhuật trọng thượng cổ thánh hiền chép hiền chép chơi...
1. Theo thần phả đến Yên Lư, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.
2. Quốc sử di biên của Sứ quán triều Nguyễn nói Tụê Tĩnh mất ở Giang Nam Trung Quốc.
3. Theo Đào Duy Anh nói ở lời đầu sách dịch Thiền tông khóa hư lục, thì vǎn vần chữ nôm xưa nhất là mấy bài phú đời Trần. Về vǎn xuôi thì sách giải nghĩa Thiền tông khóa hư lục của Tuệ Tĩnh cuối thời Trần là xưa nhất.
Gia giảm dùng chữa các loại bệnh ngoại cảm, ôn dịch và nội thương tạp bệnh (Thư viện Hán Nôm VHc 3626).
4. Thập tam phương gia giảm và Bổ âm đơn đã được đời sau diễn dịch ra ca nôm và in ở Hồng Nghĩa giác tư y thư quyền hạ nǎm 1723 (AB 306).
5. Một bài Nhân thân phú (tương truyền, của Tuệ Tinh), khái quát về lý luận cơ bản người tương ứng với thiên nhiên, cơ nǎng sinh lý, tạng phủ khí huyết và đường hướng dưỡng sinh chú trọng giữ gìn tinh khí thần để nâng cao tuổi thọ.
Truyền thống y học của Tuệ Tĩnh đã phục vụ đắc lực sức khỏe nhân dân từ bao đời nay, sự nghiệp trước tác của ông đã giữ một vị tri trọng đại nhất trong lịch sử y học Việt Nam. Vì vậy, nhân dân ta đã lập đền thờ ông: Đền Thánh thuốc nam ở quê hương thôn Nghĩa Phú, xã Cẩm Vũ, đền Bia ở thôn Vǎn Thai, xã Cẩm Vǎn, miếu Nghè ở chùa Giám, xã Tân Sơn, huyện Cẩm Bình, tinh Hải Hưng. Ngoài ra, ông còn được thờ là Thành hoàng ở xã Yên Lư, huyện Thủy Nguyên, ngoại thành Hải Phòng (có sắc phong là Thượng thượng dẳng phúc thần nǎm 1572, theo thần phả do Nguyễn .Bính, Đông các đại học sĩ ở Viện Cơ mật triều Lê soạn).
Phép Nhiếp Sinh của đại thiền – y Tuệ Tĩnh :
Bế tinh, dưỡng khí tồn thần,
Thanh tâm, hỏa dục, thủ thân luyện hình


Đó là bảy phương pháp chăm sóc của Tuệ Tĩnh.

1.Bế tinh la bế đóng lại tinh và vật chất cơ bản của cơ thể giúp dinh dưỡng cơ quan phủ tạng. Chúng ta tìm hiểu bí quyết sống khỏe và trường thọ này vì nó liên quan mật thiết đến Tiên Thiên Khí Công, đồng thời bổ túc thêm những điều cần yếu chưa được đề cập. Hai câu trên bao gồm bảy ý niệm, tất cả đều cần được hiểu rõ và thực hành trong đời sống hằng ngày để sống lâu một cách khỏe mạnh, sáng suốt.Tinh; tức chất tinh túy được cơ thể chắt lọc từ thức ăn, từ các chất bổ dưỡng nhứt. Tinh đầy đủ thì sức khỏe khang kiện, tính tình vui vẻ, hắng hái, yêu đời. tinh thiếu thốn thì thường bệnh hoạn,ốm đau, bi quan, buồn chán. Tinh bị mất nhiều nhất trong quan hệ vơ chồng, nam nữ. Nam giới thường bị mất mát nhiều hơn nữ giới, nhưng không có nghĩa là nữ giới không bị tổn hại nếu lạm dùng tình dục. Đàn ông thường có tuổi thọ ngắn hơn đàn bà là do tiêu phí tinh quá nhiều. Nhiều người già trước tuổi, sức khỏe suy kiệt nhanh chóng đến độ đi đứng không vững cũng do sự phí phạm chất tinh túy của cơ thể này. Ông vua điển hình của sự phí phạm tinh túy đến nỗi phải nằm trên long sàng là Lê Long Đĩnh, còn được gọi là Lê Ngọa Triều. Ngoài ra, trong lịch sử nhân loại có rất nhiều người do có thế lực,do giàu có đã quá lạm dụng tình dục, đưa đến hậu quả tất yếu là giảm sức khỏe, tinh thần suy kiệt, đầu óc mê muội, đời sống bị rút ngăn trong tối tăm, mịt mờ. Nhiều người, kể cả người có tuổi vẫn không biết chế ngự, vẫn không biết hạn chế,luôn luôn phí phạm tinh chất trong các cuộc truy hoan liên tục, đưa đến tình trạng bại hoại từ vật chất đến tinh thần. Vì thế Tuệ Tĩnh khuyên chúng ta nên bế tinh.
2. Dưỡng khí: theo cổ đông y ‘’ Khí’’ là nguồn năng lượng vô hình luôn có trong cơ thể và cũng là hoạt động của các tổ chức tạng phủ. Cần phải biết vận hành khí để duy trì sức sống.
3. Tồn thần: theo y học cổ truyền ‘’ Thần’’ là thể thăng hoa của ‘’tinh’’ và ‘’khí’’ hợp lại. Thần biểu hiện của sức sống. Thần có thể là tình trạng ý thức, tri giác vận động của con người. Vậy tồn thần để bảo vệ bản lĩnh sống thường ngày.


4. Thanh tâm: theo tâm lý học là không đua đòi, luôn ung dung, không để danh lợi, ngoại vật cám dỗ

5. Quả dục: Là giảm bớt sự ham muốn, thèm khát về mọi mặt như công danh, sắc đẹp nhục thể...
6. Thủ thân: ‘’Thủ’’ là giữ gìn bảo vệ; ‘’Chân’’ là sự thật. Vậy cần phải tôn trọng giữ gìn mọi sự thật trong cuộc sống để Tinh - Khí - Thần không bị anh hưởng.
7. Luyện hình: Là phương pháp vận động cơ thể như cơ, khớp... để các hoạt động cần thiết của cơ quan tạng phủ, giúp khả năng thích ứng và sức chịu đựng của cơ thể trong mi6 trường sống( người xưa gọi cơ thể ngừoi là linh khi )
Tóm lại, Nhiếp sinh có thể hiểu là sự chăm sóc sức khỏe của Thầy Tuệ Tĩnh. Nó vừa nâng cao thể lực, vừa rèn luyện bản lĩnh tích cực về tinh thần cho mọi người. Và sức khỏe là một hòan hảo về thể chất, tinh thần và phúc lợi xả hội.
Ông đã đi qua đời sống này, đã cứu nhân độ thế. Trong 30 năm hoạt động ở nông thôn, Khi trở lại Chùa Yên Trang Ông đã tu bổ lại chùa này với một số chùa khác. Tổng cộng là 24 ngôi chùa ở hạt Sơn Nam và quê hương, huấn luyện y học cho các tǎng ni để mở rộng việc chữa bệnh làm phúc. Biến các ngôi chùa này thành y xá. Ông cũng đã từng sử dụng 74 ngôi chùa làm nơi chữa bệnh. Truyền thống của Tuệ Tĩnh đã được người đời sau thừa kế và phát huy rạng rỡ trong việc bảo vệ sức khỏe nhân dân và phát triển y học dân tộc.
Người đời tôn tụng ông là tổ sư nghề y dược nước Việt, vị thánh thuốc Nam. Ông là một nhà sư y, một người mở đường cho sự nghiệp nghiên cứu thuốc nam, xây dựng nền móng cho y học dân tộc, được nhân dân ta tôn vinh bậc Y tổ thuốc nam, một người thầy thuốc vĩ đại, ông đã làm rạng rỡ nền y học nước nhà và là người đề xướng khẩu hiệu “Nam dược trị Nam nhân”, đó là đại danh y Tuệ Tĩnh - Bậc thánh Y Việt Nam.
Tuy bia của Nguyễn Danh Nho khắc năm 1699 như địa phương đã xác nhận, nhưng cũng đã được Nguyễn Xuân Dương dẫn lại trong Đông y tùng báo năm 1929 khi khẳng định Tuệ Tĩnh đậu khoa Tân Mão (1351). Còn Lê Huy Phác nói Nguyễn Tuệ tĩnh đậu khoa Tân Mão(1351). Còn Lê Huy Phách nói Nguyễn Bá Tĩnh đậu năm 1374 dưới triều Trần Duệ Tông chắc cũng đã dựa vào một tư liệu khác, có lẽ là Đại Việt lịch đại đăng khoa lục theo bản sao của Nam Phong. Vì các khoa thi thái học sinh như thường lệ, đều không ghi tên người đậu, và từ năm 1345 không được sử chép nữa, thì ta cũng có thể tìm được việc thi đậu của Tuệ Tĩnh vào khoa Tân Mão(1351). Hơn nữa những người đậu Thái học sinh được thi vào thi đình, thì Tuệ Tĩnh đã có tiêu chuẩn dự thi, Về đệ nhị giáp của khoa này, sử chỉ ghi La Tu mà không có Tuệ Tĩnh, cũng như đệ tam giáp Lê Hiến Tứ để khuyết, thì ta có thể hiểu rằng sử chỉ chép tên, những người được bổ dụ làm quan mà thôi. Như vậy, có nhiều khả năng Tuệ Tĩnh đã đậu Thái học sinh 1351, và sau lại thi đậu Hoàng Giáp năm 1374, nhưng sau đó đi tu, không làm quan, nên sử đã không chép.
Y đạo đã tròn, Phật sự viên mãn, Tuệ Tĩnh còn khắc khoải bao nỗi niềm, bao mong mỏi. Ông đau đáu về cố hương. Không cần danh vị Đại Y thiền sư mà vua Minh ban cho, không cầu chức tước trong Thái y viện, không thiết bổng lộc, không màng tới bài vị trong Y miếu Thăng Long, tâm ông vẫn chỉ mong nắm xương tàn của mình được mang trở về quê hương. Từng con chữ khắc trên mộ phần ông là lời di nguyện ấy: Có ai về nước Nam, cho tôi về với! Sao mà thê lương thế, Tuệ Tĩnh ơi! 
Tuệ Tĩnh đã tổng hợp và để lại những bài thuốc kinh nghiệm quý báu. Đó là một kho tàng y học giá trị to lớn cho sự bảo tồn, thừa kế và phát huy vốn y, dược cổ truyền của nhân dân ta.
“Khuôn vàng, thước ngọc người xưa
Lưu truyền hậu thế vẫn chưa phai mờ

Khuyên người chớ có thờ ơ
Theo đó tập luyện đừng chờ đợi chi”

Thứ Bảy, 1 tháng 5, 2010

THẦN Y HOA ĐÀ

HuaTuo.jpg   

Chuyện xưa kể, Hoa Đà (chữ Hán: 華佗), tự là Nguyên Hóa (元化) (145-208) là một vị lương y nổi tiếng thời Đông Hán trong lịch sử Trung Hoa, được xem như thần y. Ông được xem là một trong những ông tổ của Đông Y.
Ngoài đời
Hoa Đà là người ở huyện Tiêu, nước Bái thuộc Dự châu, là đồng hương của Tào Tháo.
Hoa Đà nổi tiếng là thầy thuốc giỏi đương thời. Tào Tháo đã mắc bệnh đau đầu trong nhiều năm, sai người triệu ông đến chữa trị. Do thuốc  của Hoa Đà hiệu nghiệm, ông được giữ lại trong quân Tào Tháo một thời gian. Những lúc bị đau, Tào Tháo nhờ Hoa Đà châm cứucho một vài mũi kim thì bệnh tình đỡ đi nhiều.
Sau này Tào Tháo có người nhà mắc bệnh, lại gọi Hoa Đà tới chữa. Được một thời gian chưa xong, Hoa Đà xin về nhà thăm vợ có bệnh, lại xin nghỉ thêm ít lâu nữa. Tào Tháo nghi ngờ, sai người đến dò xét thì thấy vợ Hoa Đà không có bệnh gì, bèn hạ lệnh bắt Hoa Đà vào ngục hỏi tội. Bị ngục lại tra tấn, Hoa Đà chết trong ngục.
Năm 219, Tào Tháo lại tái phát bệnh đau đầu. Bị bệnh đau đầu hành hạ không có ai chữa được, Tào Tháo rất ân hận vì đã giết Hoa Đà. Tháng giêng năm 220, Tào Tháo qua đời.
Trong Tam Quốc diễn nghĩa

Theo tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa của La Quán Trung thì Hoa Đà đã chữa bệnh cho Quan Vũ bằng cách mổ vai để nạo chất độc domũi tên đâm vào trong lúc Quan Vũ vẫn bình thản đánh cờ vây. Hoa Đà được cho là đã biết áp dụng kỹ thuật gây mê bằng một hỗn hợprượu và thảo dược được gọi là ma phí tán (麻沸散), 1600 năm trước khi người phương Tây biết áp dụng kỹ thuật này trong phẫu thuật.

Cũng theo tiểu thuyết này, Tào Tháo khi được Hoa Đà khuyên nên mổ sọ để cạo chất độc đã nghi Hoa Đà muốn giết mình nên tống ông vào ngục và giết chết Hoa Đà. Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa, Hoa Đà vì cảm kích người gác ngục đã chăm sóc mình khi đang ở trong ngục nên đã truyền sách của mình cho người lính này. Tuy nhiên, do vợ của người lính đó sợ nếu chồng mình theo nghề y sẽ có kết cục bi thảm như Hoa Đà nên đã đốt mất, do đó tất cả sách vở của Hoa Đà về nghề y đã thất truyền.

Hoa Đà được cho là người sáng tác ra Ngũ Cầm Hí (五禽戲), tập luyện dựa theo động tác của năm loài vật: hổ, hươu, gấu, khỉ và chim